T5,
01/08/2015 - 12:37
http://www.sbtn.tv/vi/tin-viet-nam/viet-nam-bi-xao-tron-doi-song-do-thay-doi-ma-vung-dien-thoai.html
Bộ
Thông tin - truyền thông CSVN mới ban hành thông tư mới về qui định kho số viễn
thông, sẽ có hiệu lực từ ngày 1/3/2015 tới đây.
Theo
đó, mã vùng điện thoại cố định của 59/63 tỉnh, thành phố sẽ có sự thay đổi. Bộ
này giải thích, do độ dài mã vùng giữa các tỉnh/thành phố khác nhau, dẫn đến việc
quay số gọi liên tỉnh hay từ mạng điện thoại di động (ĐTDĐ) đến điện thoại cố định
là không thống nhất. Tùy theo tỉnh/thành phố mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ
số bao gồm cả số mã đầu quốc gia “0”. Với việc không có sự thống nhất trong độ
dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ.
Quy
định mới đã thay đổi độ dài mã vùng là 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao điện
thoại cố định giữ nguyên là 7 hoặc 8 chữ số phụ thuộc vào vùng đánh số … Như vậy,
độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước, hoặc gọi từ mạng ĐTDĐ đến điện thoại
cố định thống nhất trên toàn quốc, đều là 11 chữ số bao gồm cả số “0” bắt đầu
cho mã số quốc gia.
Hiện
tại độ dài mã mạng ĐTDĐ là 2 (đầu 9X) và 3 (đầu 1XX) chữ số, độ dài số thuê bao
điện thoại ĐTDĐ (ĐTDĐ) là 7 chữ số, dẫn đến độ dài quay số khi gọi đến thuê bao
ĐTDĐ là không thống nhất, tùy theo mã mạng mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ
số, bao gồm cả số mào đầu quốc gia “0”. Quy định mới cho độ dài mã mạng ĐTDĐ là
2 chữ số, độ dài số thuê bao ĐTDĐ vẫn giữ nguyên như hiện tại là 7 chữ số. Như
vậy, độ dài quay số khi gọi đến thuê bao ĐTDĐ là thống nhất, đều là 10 chữ số
bao gồm cả số mào đầu quốc gia “0”. Trong thời gian tới, tất cả các thuê bao hiện
tại 11 chữ số, sẽ được chuyển thành thuê bao 10 chữ số.
Việc
thay đổi mã vùng của 59 tỉnh, thành phố là một vấn đề được dự báo sẽ gây xáo trộn
lớn, ảnh hưởng không chỉ cho gần 7 triệu thuê bao điện thoại cố định và khoảng
40 triệu thuê bao ĐTDĐ, mà còn tác động đến thông tin liên lạc trên toàn quốc
và quốc tế. Điều đáng ngạc nhiên là chỉ còn khoảng 2 tháng nữa là đến thời điểm
thông tư có hiệu lực, nhưng hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn
thông đều mới chỉ biết đến vấn đề này qua báo chí.
Trong
vòng 10 năm, đây là lần thứ hai CSVN tiến hành việc đổi mã vùng điện thoại và
quy định lại kho số viễn thông. Lần quy hoạch trước, CSVN cho phép cấp mã mạng
ĐTDĐ 3 chữ số, bên cạnh mã 2 chữ số, điều này đã dẫn đến số thuê bao ĐTDĐ tại
Việt Nam không đồng nhất giữa loại 10 và 11 chữ số. Khi đó, họ đưa ra lý do tốc
độ phát triển thuê bao nhanh, cần phải cấp thêm mã số mạng ĐTDĐ để đáp ứng nhu
cầu.
Chưa
biết quy định mới này có hiệu quả đến đâu, nhưng người dân và doanh nghiệp đã
thấy rõ khó khăn và thiệt hại trước mắt. Nhiều người cho rằng mã vùng điện thoại
cố định mới dài dòng, khó nhớ hơn và họ đang quen với các mã vùng hiện đang
dùng, nên sẽ phải bắt đầu làm quen với mã mới. Mặt khác, việc thay đổi mã vùng
và mã mạng điện thoại ĐTDĐ sẽ khiến cho họ khó khăn trong liên lạc. Đặc biệt, với
những thuê bao ĐTDĐ 11 chữ số, phải chuyển thành 10 chữ số, thì bộ vẫn
chưa đưa ra hướng giải quyết.
Còn
đối với các doanh nghiệp và người làm ăn, số điện thoại rất quan trọng trong
giao dịch thường nhật. Quy định đổi mã số điện thoại hết sức bất ngờ, không được
thông báo trước và hạn thời gian chuẩn bị thi hành ngắn, khiến họ không kịp có
điều chỉnh, thiệt hại kinh tế là điều thấy rõ. Ví dụ như các hãng kinh doanh vận
tải như taxi, xe tải, họ sẽ phải sơn lại toàn bộ số xe của họ với số điện thoại
đã đổi mã. Mặt khác, hệ thống sổ sách, biểu mẫu hợp đồng, giấy tờ, tài liệu,
danh thiếp, lịch, biển quảng cáo, bảng hiệu, … những thứ có ghi số điện thoại của
các doanh nghiệp sẽ phải in ấn lại, sẽ làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp.
Tiếp theo sẽ là khó khăn trong giao dịch, khi các đối tác làm ăn phải lần mò lại
số liên lạc của nhau.
Lý
do khác được Bộ Thông tin – truyền thông CSVN đưa ra cho sự thay đổi này là để
hợp với các “thông lệ quốc tế”. Thực tế thì những sự thay đổi này sẽ khiến hệ
thống viễn thông Việt Nam tương thích với quốc tế hơn, điều này không sai.
Nhưng nó bộc lộ rõ tầm nhìn hạn hẹp, yếu kém trong quy hoạch và xây dựng chính
sách của chính quyền CSVN. Thông lệ quốc tế đã có từ trước khi CSVN đổi mã điện
thoại năm 2006, vậy tại sao CSVN không thực hiện từ khi đó “theo thông lệ quốc
tế” mà đến nay mới làm ?
Chưa
kể tới quá trình thực hiện lần này chưa tính tới thiệt hại cho người dân và
doanh nghiệp để có những biện pháp giảm thiểu thiệt hại. Chính quyền quy hoạch
thiếu tầm nhìn, không lâu dài, gây ra sự không đồng nhất về số thuê bao điện
thoại, song hậu quả thì người dân gánh chịu.
Kể từ ngày 1/3/2015,người Việt hải ngoại, khi gọi điện thoại
về Việt Nam, xin lưu ý kiểm tra số trước khi gọi.
Nhật
Nam / SBTN
---------------------------
TTXVN
08/01/2015
22:21 GMT+7
Quy hoạch về kho số
viễn thông có hiệu lực từ 1-3-2015, nhưng việc thay đổi mã vùng điện thoại cố định
sẽ diễn ra trong 2 năm, theo từng khu vực.
Chiều
8-1, Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) cho biết: Tuy Quy hoạch về
kho số viễn thông có hiệu lực từ 1-3-2015, nhưng việc thay đổi mã vùng điện thoại
cố định sẽ diễn ra trong 2 năm và thực hiện theo từng khu vực.
Về
việc phải thay đổi mã vùng điện thoại, Bộ Thông tin và Truyền thông lý giải: Những
năm vừa qua số lượng thuê bao điện thoại di động ngày càng tăng, ngược lại số
lượng thuê bao điện thoại cố định liên tục giảm. Xu hướng suy giảm số thuê bao
điện thoại cố định có thể vẫn diễn ra trong những năm tới.
Theo
Bộ Thông tin và Truyền thông, trước đây trong quy hoạch kho số có tới 7 đầu số
được dành cho dịch vụ điện thoại cố định, chỉ có 2 đầu số dùng cho di động. Về
lâu dài, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường viễn thông di động sẽ dẫn đến thiếu
số cho di động trong khi thừa số cho cố định. Điều này bộc lộ sự thiếu hiệu quả
trong quy hoạch, sử dụng kho số giữa mạng cố định và mạng di động nên cần đổi
mã vùng điện thoại cố định để dồn đầu số cho phát triển thuê bao di động.
Còn
theo Cục Viễn thông, Thông tư số 22/2014/TT-BTTTT về quy hoạch kho số viễn
thông có hiệu lực từ 1-3-2015, nhưng đây chưa phải là mốc thời gian áp dụng
chính sách thay đổi mã vùng điện thoại cố định. Việc thay đổi mã vùng điện thoại
cố định sẽ được thực hiện có lộ trình sau khi các doanh nghiệp viễn thông chuẩn
bị sẵn sàng về mặt kỹ thuật và thông báo cho khách hàng.
Cụ
thể, việc thay đổi mã vùng điện thoại cố định sẽ được thực hiện theo từng khu vực
(mỗi khu vực có từ 7 - 10 tỉnh, thành), trong khoảng 2 năm.
Dự
kiến đến hết năm 2016, sau khi quy hoạch xong dịch vụ điện thoại cố định, các đầu
số điện thoại cố định đang sử dụng thừa ra là 03, 04, 05, 07, 08 sẽ được dùng
cho phát triển thuê bao điện thoại di động. Khi đó, Bộ Thông tin và Truyền
thông sẽ chuyển đổi các thuê bao di động 11 số hiện nay như: 0166xxxxxxx,
0122xxxxxxx, 0199xxxxxxx, 0188xxxxxxx sang sử dụng đầu số của dịch vụ cố định
này.
Ví
dụ các thuê bao 11 số có thể được chuyển thành thuê bao 10 số bằng các đầu số
được quy hoạch cho dịch vụ cố định hiện nay như 080xxxxxxx, 030xxxxxxx,
050xxxxxxx. 040xxxxxxx, 070xxxxxxx.
Được
biết, Bộ Thông tin và Truyền thông hiện chưa chốt thời gian chính thức áp dụng
chính sách thay đổi mã vùng điện thoại cố định.
TTXVN
-------------------------------
Tuổi Trẻ Online
06/01/2015
18:53 GMT+7
TTO
- Từ 1-3-2015, các địa phương sẽ đổi mã vùng điện thoại cố định.
Bộ
Thông tin & Truyền thông vừa ban hành thông tư Quy hoạch kho số viễn
thông.
Theo
đó, chỉ có bốn tỉnh giữ nguyên mã vùng hiện tại gồm Hà Giang, Hòa Bình,
Phú Thọ, Vĩnh Phúc; các địa phương còn lại sẽ đổi mã vùng điện thoại
cố định.
Thông
tư áp dụng từ ngày 1-3-2015.
Cụ
thể, mã vùng Hà Nội đổi từ 4 thành
24; TP.HCM đổi từ 8 thành 28; Đà Nẵng
đổi từ 511 thành 236; Hải Phòng đổi từ 31 thành 225.
Các địa phương khác
được đổi gồm:
An
Giang (76 thành 296); Bà Rịa - Vũng Tàu (64 thành 254); Bạc Liêu (781
thành 291); Bắc Cạn (281 thành 209); Bắc Giang (240 thành 204); Bắc Ninh (241
thành 222); Bến Tre (75 thành 275); Bình Dương (650 thành 274); Bình Định (56
thành 256); Bình Phước (651 thành 271); Bình Thuận (62 thành 252); Cà Mau (780
thành 290); Cao Bằng (26 thành 206); Cần Thơ (710 thành 292); Đắk Lắk (500
thành 262); Đắk Nông (501 thành 261); Điện Biên (230 thành 215); Đồng Nai (61
thành 251); Đồng Tháp (67 thành 277); Gia Lai (59 thành 269); Hà Nam (351 thành
226); Hà Tĩnh (39 thành 239); Hải Dương (320 thành 220); Hậu Giang (711 thành
293); Hưng Yên (321 thành 221); Khánh Hoà (58 thành 258); Kiên Giang (77 thành
297); Kon Tum (60 thành 260); Lai Châu (231 thành 213); Lâm Đồng (63 thành
263); Lạng Sơn (25 thành 205); Lào Cai (20 thành 214); Long An (72 thành 272);
Nam Định (350 thành 228); Nghệ An (38 thành 238); Ninh Bình (30 thành 229);
Ninh Thuận (68 thành 259); Phú Yên (57 thành 257); Quảng Bình (52 thành 232);
Quảng Nam (510 thành 235); Quảng Ngãi (55 thành 255); Quảng Trị (53 thành 233);
Quảng Ninh (33 thành 203); Sóc Trăng (79 thành 299); Sơn La (22 thành 212); Tây
Ninh (66 thành 276); Thái Bình (36 thành 227); Thái Nguyên (280 thành 208);
Thanh Hoá (37 thành 237); Thừa Thiên - Huế (54 thành 234); Tiền Giang (73
thành 273); Trà Vinh (74 thành 294); Tuyên Quang (27 thành 207); Vĩnh Long (70
thành 270); Yên Bái (29 thành 216).
M.QUANG
No comments:
Post a Comment