06.01.2015
Nhân
cuộc hội thảo về văn học Miền Nam 1954-75 được tổ chức tại California trong hai
ngày 6 và 7 tháng 12 năm 2014 vừa qua, tôi không khỏi nghĩ ngợi về một thuật ngữ
mới xuất hiện ở Việt Nam mấy năm gần đây: “văn học đô thị miền Nam”.
Kể
ra, thuật ngữ mới ấy cũng là một “tiến bộ”, một sự thay đổi lớn và đầy ý nghĩa.
Bởi, trước, văn học Miền Nam thời 1954-75 bị định danh một cách đầy thù nghịch
và bỉ thử: văn học nô dịch hay văn học thực dân mới hay văn học dưới chế độ Mỹ-Ngụy
hay, nhẹ nhàng hơn một tí, chỉ một tí thôi, văn học vùng tạm chiếm. Với bất cứ
tên gọi nào, điều người ta muốn cũng là nhằm phủ nhận giá trị của nền văn học ấy:
Đó là nền văn học của những kẻ làm tay sai, không những phản “cách mạng” mà còn
phản dân tộc, và cuối cùng, như là hệ luận của những cái “phản-“ ấy, nó cũng phản
văn học, tức không có chút giá trị gì về phương diện nghệ thuật và mỹ học cả.
Nhưng
dù khá hơn một chút, khái niệm văn học đô thị miền Nam, theo tôi, vừa không
chính xác vừa ẩn giấu những hậu ý không tốt.
Nó
không chính xác vì, thật ra, nó quá đúng. Bất cứ nền văn học hiện đại nào, của
Việt Nam hay của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, cũng đều là văn học đô thị.
Về phương diện sinh hoạt, văn học hiện đại gắn liền với hai yếu tố chính: kỹ
thuật (chủ yếu là kỹ thuật in) và thương mại (thể hiện qua ba hiện tượng: nhà
xuất bản, nhà phát hành và nhà sách). Khác hẳn với nền văn học truyền khẩu trước
đó cũng như văn học liên mạng trên internet sau đó vốn có tính chất phi-tâm
(de-centred), nền văn học hiện đại, vốn gắn liền với văn hóa in ấn, bao giờ
cũng có tính không gian với địa điểm của nhà in và nhà sách. Tất cả đều gắn liền
với xu hướng đô thị hóa và thị dân hóa. Ở các quốc gia Tây phương, tất cả các
nhà xuất bản đều đặt ở thủ đô hoặc ở các thành phố thương mại lớn, bởi vậy, đó
cũng là những nơi tập trung nhiều nhà văn và nhà thơ chuyên nghiệp nhất. Ở Việt
Nam, trước năm 1945, một số nhà văn và nhà thơ sống ở nông thôn và tỉnh lẻ, khi
muốn xuất bản, đều gửi tác phẩm của mình đến các nhà xuất bản ở Hà Nội hoặc Sài
Gòn để in và bán. Ở Miền Nam, trước năm 1975, cũng vậy, Nguyễn Văn Xuân và Phan
Du sống ở Đà Nẵng; Võ Hồng và Quách Tấn sống ở Nha Trang, nhưng tất cả các tác
phẩm của họ, cũng giống như tác phẩm của các cây bút sống ở tỉnh lẻ khác, đều
được xuất bản ở Sài Gòn.
Bởi
vậy, gọi văn học Miền Nam là văn học đô thị, không có gì sai; nhưng vì không
sai, nó biến thành thừa; và bởi vì thừa, nó lại trở thành sai. Bởi, theo cách
nhìn như thế, người ta cũng có thể nói văn học miền Bắc trong cùng thời kỳ là
văn học đô thị ở miền Bắc. Hoặc rộng hơn, người ta cũng có thể gọi văn học hiện
đại Pháp, Mỹ, Anh, Úc hay mọi nền văn học khác, đều là văn học đô thị.
Thừa,
nhưng tại sao người ta vẫn muốn dùng? Lý do rất dễ hiểu: người ta muốn phân biệt
nó với văn học nông thôn hoặc văn học bưng biền vốn lâu nay được gọi là văn học
giải phóng miền Nam với những cây bút ở miền Bắc được lén lút đưa vào các rừng
núi hoặc các vùng được gọi là giải phóng.
Thì
phân biệt như vậy cũng chả sao. Chỉ có điều là nó giả. Thứ nhất, nếu căn cứ vào
phương diện sinh hoạt, những người được gọi là nhà văn hay nhà thơ giải phóng ấy,
tuy có mặt trên các vùng rừng núi miền Nam, tác phẩm của họ cũng chỉ được xuất
bản ở Hà Nội và phát hành ở Hà Nội, do đó, nếu căn cứ vào nơi xuất bản và phát
hành, nền văn học do họ tạo dựng cũng thuộc về văn học đô thị miền Bắc. Thứ
hai, về bản chất, như bản thân cái gọi là mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là một
tổ chức giả, nền văn học giải phóng miền Nam cũng chỉ là một nền văn học giả. Bởi
vậy, lâu nay, kể từ sau năm 1975, thuật ngữ văn học giải phóng miền Nam cũng biến
mất. Tất cả những tên tuổi tiêu biểu của nền văn học ấy đều được xem là thuộc về
văn học Việt Nam (tức văn học Miền Bắc) nói chung. Nguyễn Trung Thành trở thành
Nguyên Ngọc, Trần Hiếu Minh trở thành Nguyễn Văn Bổng, Bùi Đức Ái trở thành Anh
Đức, Hiểu Trường hay Hưởng Triều trở thành Trần Bạch Đằng, v.v…
Không
những giả, sự phân biệt ấy còn gian. Gian ở hai khía cạnh. Một, về phương diện
địa lý, ai cũng biết, trước năm 1975, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam còn rất yếu
ớt; đại đa số dân chúng vẫn sống ở nông thôn; do đó, cái gọi là văn học đô thị
trở thành văn học thiểu số, của chưa tới 20% dân số ở miền Nam. Hai, về phương
diện chính trị, cho đến nay, ở Việt Nam, chưa ai công nhận tính chính đáng và hợp
pháp của Miền Nam, do đó, cái gọi là văn học đô thị miền Nam cũng chỉ là dòng
văn học lạc loài, ở những “vùng tạm chiếm” hoặc chỉ là những đứa con rơi của “Mỹ-Ngụy”.
Cái
tên “văn học đô thị miền Nam” vốn phổ biến từ mấy năm nay, bởi vậy, không phải
có tính phi chính trị hoặc chỉ phản ánh xu hướng hòa giải giữa hai miền Nam và
Bắc như một số người biện bạch. Nó chỉ là một sự lừa dối hoặc tự lừa dối. Thực
chất, tên gọi ấy vẫn đầy tính chính trị và xuất phát từ âm mưu phủ nhận tính
chính đáng của văn học Miền Nam.
Bởi
vậy, hãy cứ gọi văn học Miền Nam thời kỳ 1954-75 là văn học Miền Nam. Với chữ
Miền Nam được viết hoa. Không có đô thị hay nông thôn gì cả.
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
---------------------------------
Xem toàn bộ
No comments:
Post a Comment