Hoàng
Anh Tuấn - TuanVietNam
09/01/2015 02:00 GMT+7
Việc
USD tăng giá nên cân nhắc khả năng USD chảy ngược
từ Việt Nam ra ngoài ra sao và ảnh hưởng thế
nào đến sức cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt
Nam.
Từ
tháng 6/2014 đến nay có hai hiện tượng kinh tế diễn biến khá bất thường, đó là
việc sụt giảm mạnh giá dầu và sự tăng giá chóng mặt của đồng USD so với các đồng
tiền chủ chốt khác.
Chỉ
trong vòng nửa năm, đồng USD đã tăng giá khoảng 20% so với đồng Yên Nhật và
Đô-la Australia, 15% so với đồng Euro và 12% so với đồng Bảng Anh, chưa kể việc
đồng Rúp bị mất giá tới 50%. Trong khi chưa hết bàng hoàng về sự tụt giảm giá dầu,
nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính sách bắt đầu ngơ ngác nhìn nhau không biết
chuyện gì đang xảy ra với đồng USD và xử lý ra sao.
Trong
bối cảnh các nền kinh tế thế giới gắn kết chặt chẽ với nhau, việc đồng USD lên
giá “vùn vụt” đang trở thành câu chuyện kinh tế, tài chính toàn cầu cần
được bàn kỹ và có cách ứng phó kịp thời trước khi trở nên quá muộn. Cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính châu Á 1997-98 bắt nguồn từ việc phá giá đồng Baht và
các tác động lan tỏa của nó khiến nhiều nước phải trả giá vì trở tay không kịp
đến nay vẫn là bài học nhãn tiền.
Vì
sao USD tăng nhanh
Trong lĩnh vực tài chính, chỉ số DXY so sánh giá trị
của đồng USD với 6 đồng tiền chủ chốt trong thanh toán quốc tế gồm Euro, Yên Nhật,
Bảng Anh, Đô-la Canada, France Thụy sĩ và Krone Thụy Điển được coi là “chuẩn mực”
để xác định giá trị của đồng tiền này.
Trong vòng 1 năm qua, chỉ số của đồng USD trong rổ
tiền tệ này tăng từ 79 lên 92 điểm, và có khả năng vượt 115 điểm của năm 2002, tức giá trị USD
tăng tiếp khoảng 25%.
Một số nguyên nhân chính đưa đến
sự tăng giá của đồng USD trong thời gian qua gồm:
Thứ nhất, đó là sự tăng trưởng ngoạn mục
của kinh tế Mỹ trong năm 2014. Sau giai đoạn phục hồi ì ạch sau khủng hoảng
2008-2009, năm 2014 kinh tế Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng cả năm là 3,3%, vượt xa mức
dự báo trước đó là 2,2%. Riêng Quý III/2014, tăng trưởng GDP đạt 5% - mức cao
nhất trong một quý trong 11 năm qua. Sự phục hồi của kình tế Mỹ trái với bức
tranh khá ảm đạm của các trung tâm kinh tế khác trong năm qua, như các nước
trong khu vực sử dụng đồng Euro chỉ tăng trưởng 0,8%, Nhật Bản là 0,5%, Nga là
0,6%. Trung Quốc tuy đạt tốc độ tăng trưởng cao là 7,4%, nhưng đây là mức thấp
nhất kể từ năm 1990 và không đạt so với kế hoạch đặt ra là 7,5%.
Thứ hai, quyết định của Mỹ chấm dứt Gói
nới lỏng định lượng (QE) vào ngày 29/10/2014, mà thực chất là gói kích cầu khổng
lồ trị giá 3,7 ngàn tỷ USD mà Mỹ bơm ra suốt 6 năm qua kể từ khi bắt đầu cuộc
khủng hoảng 2008-2009 nhằm đưa kinh tế Mỹ thoát khỏi viễn cảnh khủng hoảng
1929-1933.
Động thái này cùng với khả năng Cục dự trữ liên bang
FED sẽ nâng lãi suất từ mức cận 0 hiện nay do tăng trưởng kinh tế Mỹ cao cùng với
tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp dưới 6% sẽ có tác dụng thu USD trở lại và khiến đồng
bạc xanh trở nên “khan hiếm” và “có giá” hơn so với các đồng tiền khác.
Bên cạnh đó, cả Ngân hàng trung ương Nhật BOJ lẫn
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB đều đánh tín hiệu về khả năng sẽ tiếp tục duy
trì mức lãi suất thấp và bơm thêm tiền vào nền kinh tế thông qua các gói kích cầu
để giúp Nhật và EU tránh rơi vào suy thoái. Điều này càng làm cho Euro và đồng
Yên thêm mất giá so với đồng USD.
Thứ
ba, triển vọng kinh tế trong năm 2015 với các trung tâm kinh tế lớn cũng
không khác mấy so với năm 2014.
Theo đó, kinh tế Mỹ dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ
cao, trung bình khoảng 3,5%, còn Nhật và EU khoảng 0,9% trong khi kinh tế TQ
tăng trưởng chậm lai, còn Nga bước vào giai đoạn suy trầm.
Nắm bắt xu hướng này, hiện một số nước
đã chuyển trạng thái tích trữ của mình sang đồng USD và bán dự trữ bằng các đồng
tiền khác. Tuy đây mới chỉ là xu hướng ngắn hạn, nhưng nó cũng
góp phần làm cho USD thêm khan hiếm và đẩy giá trị của đồng tiền này lên cao.
USD
tăng giá và các tác động
Việc Mỹ chấm dứt Gói nới lỏng định lượng đồng nghĩa
với việc kỷ nguyên đồng USD rẻ đã đi đến hồi kết.
Giá trị đồng USD đã đảo chiều và các động lực thúc đẩy
đà tăng giá của đồng USD trong cả ngắn hạn lẫn trung hạn vẫn rất lớn. Về ngắn hạn,
đó là: (i) kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt
trong khi các nền kinh tế khác còn trì trệ; (ii) nhu cầu tiêu
thụ dầu lửa và các loại hàng hóa cơ bản khác đang giảm mạnh do kinh tế thế giới
tăng trưởng thấp; (iii) tình hình chính trị bất ổn ở nhiều nơi trên thế giới (tình hình kinh tế và nội trị Nga, quan hệ giữa Nga với phương Tây, các bất ổn tại khu vực Trung Đông và xung đột ở U-crai-na…); (iv) khan hiếm đồng đô la do khả năng FED tăng lãi suất cơ bản và các nhà đầu tư có xu hướng rút tiền từ các thị trường mới nổi đầy rủi
ro sang nơi trú ẩn an toàn hơn là Mỹ.
Về trung và dài hạn, hiện vẫn chưa rõ xu hướng tăng giá USD sẽ kết thúc khi nào nhưng tờ Spiegel của Đức đã đưa ra dự báo khả năng 1 Euro đổi tương
đương với 1 USD vào năm 2017, tức Eurro sẽ mất giá thêm khoảng 20% trong vòng 2
năm nữa.
Như vậy, Đức và một số nền kinh tế lớn đã chuẩn bị
cho phương án chỉ số đồng USD ở mức 115. Tuy nhiên, nếu tương quan triển vọng
các nền kinh tế lớn không thay đối, khả năng USD tăng lên và “trụ lại” ở mức đỉnh
130 như thời kỳ đầu năm 1985 khi Mỹ thực thi chính sách Reaganomics là không loại
trừ.
Do USD là đồng tiền chủ chốt, hiện chiếm
khoảng 66% tổng dự trữ ngoại tệ và 85% khối lượng trao đổi thương mại
trên thế giới, nên sự lên giá mau chóng của đồng USD đang tác động mạnh đến thị
trường tài chính, thương mại và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Nhưng do mức độ phụ thuộc vào đồng USD của từng quốc gia, cũng như của từng
lĩnh vực, ngành hàng ở mỗi nước khác nhau, nên các tác động cũng khác nhau. Sơ
bộ có thể thấy như sau:
Với Mỹ: USD lên giá mạnh là một thực tế khách quan,
ngoài dự tính. Điều này khác với thời kỳ USD lên giá có chủ đích đầu những năm
1980, khi Tổng thống Reagan thi hành chính sach kinh tế bảo thủ gọi là
Reganomics khi Mỹ chủ trương nâng lãi suất cao, với mức cực đỉnh là 20%, để thu
hút dòng tiền từ bên ngoài nhằm “làm mới” lại nước Mỹ.
Năm 2015, chỉ số chứng khoán Dow Jones của Mỹ dự kiến
sẽ tăng từ 18.000 điểm hiện nay lên khoảng 15%, tức 20,500 điểm trong năm 2015.
Việc USD một lần nữa “chảy” về nước Mỹ sẽ giúp người
Mỹ có thêm tiền để chi tiêu; doanh nghiệp Mỹ có thêm tiền để chi mạnh tay cho
nghiên cứu, đối mới công nghệ và mở rộng sản xuất; còn chính quyền tăng thêm
nguồn thu từ thuế.
Trong ngắn hạn, Mỹ có thể chấp nhận “thiệt thòi” do
xuất khẩu khó khăn vì giá hàng hóa xuất từ Mỹ tính theo USD trở nên đắt đỏ;
kinh tế tăng trưởng tốt và việc thu hẹp thâm hụt ngân sách có thể giúp “bù”
thâm hụt thương mại. Song về trung và dài hạn, thâm hụt thương mại lớn và kéo
dài lại đe dọa đến công ăn việc làm của người Mỹ và tương lai tăng trưởng của
nước Mỹ. Đây sẽ là nguyên nhân chính “kéo” đồng USD không ở mức quá cao.
Đối với các nền kinh tế khác thì hệ quả sẽ là: Thứ
nhất, việc đồng nội tệ của họ mất giá so với USD sẽ giúp việc xuất khẩu
sang Mỹ có nhiều lợi thế do giá cả rẻ và có tính cạnh tranh hơn so với hàng hóa
sản xuất tại Mỹ. Tuy nhiên, chưa chắc việc xuất khẩu sang các thị trường khác
ngoài Mỹ sẽ có thuận lợi tương tự do đồng nội tệ của các nước khác cũng mất
giá so với đồng USD gần như tương đương với sự mất giá đồng nội tệ của họ.
Điều này có thể dẫn đến cuộc “chiến tranh” hạ giá tiền tệ giữa các nước nhằm
giành lợi thế tương đối.
Thứ hai, thị trường các nước
mới nổi sẽ trở nên chao đảo do làn sóng rút USD chạy về Mỹ và việc này có thể cản
trở đến quá trình phục hồi và tăng trưởng kinh tế của họ.
Thứ ba, các nước bị thiệt
hại nhất là những nước thi hành chính sách tỷ giá cứng nhắc, gắn chặt đồng nội
tệ của mình với đồng USD. Việc này sẽ làm cho hàng hóa của họ trở nên đắt đỏ, mất
sức cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước, mà cả trên phạm vi quốc tế.
Thứ tư, gánh nặng trả nợ
bằng đồng USD đắt đỏ hơn từ các đồng USD rẻ trước đây sẽ làm tăng gánh nặng
ngân sách và kìm hãm triển vọng tăng trưởng tại nhiều nước.
Đối với Việt Nam, ngày 6/1/2015 Ngân hàng nhà nước VN đã tiến hành điều
chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, theo đó đồng USD tăng giá 1% so với VND. Khác với các lần điều chỉnh trước, lần điều chỉnh này diễn ra trong bối cảnh
các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam khá tốt: Năm 2014, tăng trưởng kinh tế Việt
Nam đạt 5,9%, cao hơn năm 2013 là 5,42% và dự kiến trong năm 2015 là 6,2%. Do
đó, việc điều chỉnh này cần được xem là nhằm giảm bớt các bất lợi từ việc USD
tăng giá quá nhanh.
Do đặc điểm của nước ta là đồng VND gắn khá chặt với
đồng USD và độ mở của nền kinh tế khá lớn so với nhiều nước khác với tỷ lệ tổng
thương mại/GDP là 164%, nên bất kỳ thay đổi nào trong giá trị của đồng USD đều
tác động đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Mặt khác, nền kinh tế của chúng ta
cũng có đặc điểm khác là đồng VND không phải là đồng tiền chuyển đổi tự do với
tỷ giá thả nổi như các đồng tiền khác nên các tác động chưa trực tiếp và tức
thì như các nền kinh tế khác.
Vào lúc này chúng ta cần theo dõi kỹ, đánh giá các
tác động tiêu cực cũng như tích cực của việc USD lên giá và có sự điều chỉnh
chính sách tỷ giá kịp thời, hợp lý.
Những vấn đề cần xem xét, đánh giá lúc này:
Một
là, việc VND “neo” theo đồng USD vô hình trung làm cho VND lên giá mạnh so với hàng loạt đồng tiền chủ chốt khác. Nên cân nhắc xem việc này tác động ra sao đến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, có làm cho hàng hóa xuất khẩu của chúng ta trở nên đắt đỏ, khó cạnh tranh hơn không?
Hai là, chi phí đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam có trở nên đắt đỏ hơn các nước xung quanh không, tác động ra sao đến
môi trường kinh doanh cũng như thu hút đầu tư nước ngoài?
Ba là, việc đồng USD tăng giá ảnh hưởng ra sao đến khả
năng và việc thực thi các nghĩa vụ trả nợ của chúng ta. Bốn là, khả năng
USD chảy ngược từ Việt Nam ra ngoài ra sao và khả năng ngân hàng trung ương
tăng lãi suất liên ngân hàng đối với tiền gửi ngoại tệ tác động ra sao đối với
lãi suất gửi và cho vay bằng VND, và từ đó ảnh hưởng thế nào đến sức cạnh
tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam.
Hoàng
Anh Tuấn (Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ Ngoại
giao)
---------------------------------
Cập nhật lúc: 06h52" | 09/01/2015
(VnMedia) - Giá vàng giảm
ngày thứ hai liên tiếp trong phiên thứ Năm, do chịu áp lực từ đồng USD mạnh lên
và thị trường chứng khoán Mỹ tăng do kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ kiên nhẫn
hơn trong việc nâng lãi suất.
>> Giá
vàng quay đầu giảm mạnh
Biên bản cuộc họp chính sách gần đây nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), công bố hôm thứ Tư (7/1) đã trấn an thị trường bằng việc ngân hàng trung ương chưa vội vã nâng lãi suất, đẩy chứng khoán châu Âu tăng lên.
Chốt phiên New York, Mỹ thứ Năm (8/1), kết thúc đêm qua (giờ Việt Nam), giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.208,17 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 2 giảm 2,2 USD, tương đương 0,2%, xuống 1.208,5 USD/ounce.
Biên bản cuộc họp chính sách gần đây nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), công bố hôm thứ Tư (7/1) đã trấn an thị trường bằng việc ngân hàng trung ương chưa vội vã nâng lãi suất, đẩy chứng khoán châu Âu tăng lên.
Chốt phiên New York, Mỹ thứ Năm (8/1), kết thúc đêm qua (giờ Việt Nam), giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.208,17 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 2 giảm 2,2 USD, tương đương 0,2%, xuống 1.208,5 USD/ounce.
So với các đồng tiền chính, đô la Mỹ đã tăng
lên cao nhất 9 năm so với euro, khi giới đầu tư tăng đặt cược rằng Ngân hàng
trung ương châu Au đang tiến dần đến việc nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm ngăn
đà giảm phát.
Euro giảm giá đã đẩy giá vàng tính theo đồng tiền này tăng 0,8% lên 1.031,68 euro/ounce, cao nhất 15,5 tháng qua.
Giới phân tích hiện đang chờ số liệu việc làm phi nông nghiệp tháng 12 của Mỹ, công bố vào thứ Sáu 9/1, thước đo chính sức khỏe nền kinh tế Mỹ. Nếu báo cáo khả quan có thể sẽ củng cố hơn quan điểm Fed sớm tăng lãi suất.
Phản ánh tâm lý nhà đầu tư, hôm thứ Tư 7/1, Quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR đã bán ra 3 tấn vàng, đưa lượng vàng nắm giữ xuống còn 704,83 tấn, thấp nhất kể từ cuối năm 2008.
Euro giảm giá đã đẩy giá vàng tính theo đồng tiền này tăng 0,8% lên 1.031,68 euro/ounce, cao nhất 15,5 tháng qua.
Giới phân tích hiện đang chờ số liệu việc làm phi nông nghiệp tháng 12 của Mỹ, công bố vào thứ Sáu 9/1, thước đo chính sức khỏe nền kinh tế Mỹ. Nếu báo cáo khả quan có thể sẽ củng cố hơn quan điểm Fed sớm tăng lãi suất.
Phản ánh tâm lý nhà đầu tư, hôm thứ Tư 7/1, Quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR đã bán ra 3 tấn vàng, đưa lượng vàng nắm giữ xuống còn 704,83 tấn, thấp nhất kể từ cuối năm 2008.
Đinh
Bách (Reuters)
No comments:
Post a Comment