6.01.2015
“Một
ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.”
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.”
Năm
1965 Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Gia Tài Của Mẹ” và gọi cuộc chiến Việt Nam là
nội chiến và ví đất nước như một thứ gia tài “buồn” của Mẹ. Trước đó, năm 1963,
các nhà văn Viên Linh và Dương Nghiễm Mậu đã viết những tác phẩm với nội dung về
di sản hay dự phóng về tương lai của dân tộc qua ẩn dụ về gia tài của Mẹ và qua
việc tranh chấp giữa những người con. Phần trình bày của tôi là một cố gắng nhằm
tìm hiểu quan điểm về màu da, giới tính, chủng tộc, và giai cấp như một thứ di
sản của Miền Nam Việt Nam. Bài viết này là một cách đọc lại Thị Trấn Miền Đông (TTMĐ) của Viên Linh trong ý niệm về Mẹ/ Cái Chết của
Mẹ/ Sự Ám Ảnh của Hồn Ma Mẹ/và tất nhiên trong một bao trùm lên tất cả, là cách
những người con của dân tộc kế thừa Gia Tài của Mẹ ra sao. Vì chủ đề của bài viết
này khởi đi từ việc đọc TTMĐ, những tác phẩm khác đề cập trong bài, tùy theo mức
độ nhiêu hay ít, đều nằm trong tương quan đối chiếu với TTMĐ, và những tác phẩm
này bao gồm: hai truyện dài Gia Tài Người Mẹ (GTNM) của Dương Nghiễm Mậu và Đêm Nghe Tiếng Đại Bác (ĐNTĐB) của Nhã Ca về các mặt ý thức hệ và định nghĩa về
di sản của Mẹ, truyện ngắn “Cuộc Chơi Đã Kết Thúc”
(CCĐKT) của Trùng Dương về khái niệm cái Chết của Mẹ, và truyện ngắn “Ăn Chịu Thử Một Lần” (ĂCTML) của Minh Quân cùng với
Gia Tài Người Mẹ về quan điểm màu da, giới tính, và chủng tộc trong di sản
của Mẹ để lại. Bài viết sẽ tìm cách mở rộng những câu hỏi về căn cước Việt Nam
trong cuộc “tranh chấp tương tàn” như Dương Nghiễm Mậu đã nêu ra, câu hỏi về
tương lai của đất nước trong bối cảnh hậu thuộc địa và ý thức hệ nội chiến, và
dự cảm của Văn Học Miền Nam đứng vào thời điểm năm 1963 khi Viên Linh viết TTMĐ
và Dương Nghiễm Mậu viết GTNM.
Trước
khi bước vào TTMĐ, tôi định nghĩa sơ lược, theo cách hiểu thông thường, về những
khái niệm sẽ dùng trong bài:
Gia
tài theo định nghĩa thông thường là một thứ cụ thể, có thể chia chác, là nguyên
nhân tranh chấp, ganh ghét, giết chóc. Là thứ có thể sở hữu, chiến đoạt, làm chủ.
Là thứ đương nhiên có quyền hưởng trong tư cách là con cái. Là thứ chỉ có thể tận
hưởng sau khi Mẹ chết đi.
Mẹ:
là nguồn yêu thương, nuôi dưỡng, bảo bọc. Là sự hỗ trợ tinh thần và hy sinh vô
điều kiện. Là nguồn kết nối các anh chị em trong gia đình. Mẹ cũng là biểu tượng
của quê hương đất nước.
Anh
chị em: những người cùng mẹ, cùng lớn lên trong một gia đình, cùng quá khứ và
có sự hiểu biết thông cảm dựa trên lịch sử chung, cùng mang niềm tự hào về nguồn
gốc sinh trưởng. Những người sẵn sàng lắng nghe và nâng đỡ. Những người chia xẻ
niềm tin vào hiện tại cũng như tương lai của gia đình/ dòng tộc.
1.
Di Sản Giai Cấp và Ý Thức Hệ của những người con Miền Nam trong Thị Trấn Miền
Đông
Trong
TTMĐ, cái nhìn về Mẹ, anh chị em, quê hương, và gia tài đã khác.
Những
người con “không còn muốn nhắc đến người mẹ, đã trở thành một ám ảnh” (77). Mẹ
là chỗ nối kết và cũng là nguyên nhân gây chia rẽ trầm trọng giữa các anh em. Mẹ
là nguồn gốc của sự thiên vị. Mẹ là sự bất công, nhất là với người con gái bị
coi như một thứ “quái thai,” “một con đòi ghẻ lở” (16). Mẹ còn là nguồn gốc
xung đột và mâu thuẫn với các con vì “Mẹ chỉ tin cẩn một mình mẹ thôi” (16).
Trong
phần “Tác Phẩm Đầu Tay” nhà văn Viên Linh viết: Tạp chí Bách Khoa lúc đó từ
chối in tác phẩm này vì “không thể chấp nhận được thái độ của các nhân vật
trong truyện.” Thị Trấn Miền Đông được khởi viết tháng 8 và kết
thúc tháng 12/1963. Thời điểm này là lúc “cuộc tranh đấu của Phật Giáo
và sự đàn áp của chế độ đương thời lên tới chỗ quyết liệt nhất.” Đó là thời
gian mà bạo động xảy ra hàng ngày, chính quyền gia tăng việc bắt bớ giam cầm những
thành phần trí thức, sinh viên yêu nước, biểu tình, đảo chánh, “máu đổ trên đường
phố, và cùng lúc với chiến trận lan tràn khắp tỉnh thành, làng xóm.” Để
khảo sát về xã hội Việt Nam khi bước vào giai đoạn tăng tốc khốc liệt của cuộc
chiến, TTMĐ là một trong những tác phẩm quan trọng trước hết vì tính nghệ thuật
trong hình tượng, ngôn ngữ, nhân vật, đối thoại, khí hậu truyện, và sau đó vì
những vấn đề tác phẩm đưa ra qua những ẩn dụ quanh việc an táng, cỗ quan tài biến
mất, cải táng, cái chết lần thứ hai… Không khí của ngôi nhà, của Tây Phố, của
TTMĐ là một không khí đặc thù tỉnh nhỏ – với mưa, lạnh ẩm, buồn nản, hoang vắng
thấm vào tâm hồn của người đọc qua cách tác giả tinh lọc và vận dụng ngôn ngữ
thi ca vào từng câu từng chữ. Đó là không khí của bóng tối và đồ đạc cổ trong
những căn phòng thắp nến dù giữa ban ngày. Đó là những lối đi âm thầm trong tiếng
dơi đập cánh cuối ngày và từ cửa sổ nhìn ra sẽ thấy thung lũng Suối Cá Thần hiện
ra trong “khoảng xanh âm u tẻ nhạt” (58). Ngôi nhà của gia đình Thịnh Phước
đang suy tàn. Cấu trúc gia đình và hình ảnh Người Mẹ là những ẩn dụ để tác giả
nói về một đề tài bao trùm hơn, đó là hiện trạng của Miền Nam; thái độ, quan niệm
sống, cách hành xử và trách nhiệm của thế hệ đương thời; và sự phân hóa về giai
cấp, giới tính,và ý thức hệ trong bối cảnh thời chiến.
Nhìn
vào bố cục của tác phẩm, các chương của TTMĐ lần lượt có tên Thế Hệ Cuối Cùng,
Nhà Trí Thức, Nhà Cách Mạng, Bản Di chúc, Cỗ Áo Quan, Thi Hài Trở Lại, Người Mẹ,
và Thế Hệ Lên Đường. Mở đầu truyện, những người con trở về Tây Phố khi nhận được
tin mẹ mất. Họ về để lo ma chay và để nhận gia tài. Người mẹ- bà Thịnh Phước-
là một nhân vật có thế lực của Tây Phố. Thế lực này vừa do cơ sở làm ăn, vừa do
nguồn gốc phong kiến với chức sắc phong dưới triều hoàng đế Bảo Đại, vừa tồn tại
như một biểu tượng của một quá khứ huy hoàng đang đến giờ hấp hối. Thế lực này
đang bị lung lay bởi những tranh chấp quyền lực trong Tây Phố mà đại diện là
ông Hội Đồng và những phần tử kinh doanh mới. Điều họ mong ước nhất là nhìn thấy
sự phá sản của gia đình Thịnh Phước.
Những
người con của TTMĐ, mỗi người có một lý do riêng để rời bỏ ngôi nhà của Mẹ. Mỗi
người mang một cái tên tiêu biểu cho tính cách và sự nghiệp của họ: Người con cả
tên Học- nhà cách mạng, hành tung bí ẩn, tính cách phức tạp, nhiều mặt. Kế là
Sĩ- tiêu biểu cho giới trí thức, đi vào con đường kinh doanh chữ nghĩa và ứng cử,
nhân vật phản diện của TTMĐ. Hiệp- con út- bất mãn gia đình và bỏ đi làm thợ đập
đá ở cao nguyên- một hành động mang tính biểu tượng của thế hệ trẻ: đập phá và
mở đường. Và Liên- nhân vật chính, người con gái duy nhất trong nhà và cũng là
con riêng của người cha đã mất từ lâu. Liên làm gái giang hồ và cái tên Liên của
cô gợi liên tưởng “gần bùn nhưng chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Toàn
truyện xoay quanh việc an táng mẹ. Những người con Hiệp, Liên, Sĩ lần lượt từng
người về nhà, người gia nhân trung thành biến mất, thấy cửa vào nhà đã mở sẵn,
trừ căn phòng có ổ khóa bằng đồng đặc. Người này tưởng người kia phải ở nhà và
an táng mẹ. Họ dường như không cần biết thi hài mẹ quàn ở đâu, họ bận đấu khẩu
với nhau bằng một ngôn ngữ thẳng băng, tàn nhẫn, cố tình gây thương tích. Học
anh cả là người cuối cùng xuất hiện cùng lão gia nhân. Đến chương bốn chúng ta
biết được lão gia nhân đã quàn thi hài người mẹ trong căn phòng có ổ khóa đồng
đặc trước khi bỏ đi tìm Học. Nhưng khi lão gia nhân, người duy nhất giữ chìa
khóa, mở cửa phòng thì cỗ quan tài đã biến mất.
Câu
chuyện mở ra với âm mưu của ông Hội Đồng và ông Chưởng Khế thông đồng nhau để lấy
một phần gia tài vì một trong những điều khoản của di chúc là trong trường hợp
những người con vắng mặt thì ai đứng ra lo an táng sẽ được hưởng 1/5 số tiền mặt
một triệu rưỡi. Trong lúc gấp rút hành sự trước khi các người con quay về, họ
đã chôn bà Thịnh Phước ở thung lũng Suối Cá Thần, ngược với ước muốn chôn ở đỉnh
đồi Lương Sơn theo di chúc của bà.
Trong
chương kế, những người con bàn xem có nên cải táng mẹ ở đỉnh đồi như tâm nguyện
bà vẫn nói lúc còn sống. Tuy nhiên các nhân vật hầu như không làm gì cụ thể cho
việc an táng me, họ bận tranh luận và đấu khấu, có bất đồng giữa Sĩ và Liên, có
bạo lực xảy ra giữa Sĩ với Liên và Hiệp. Cuối cùng, bị cô lập, Sĩ bỏ đi mang
theo tấm chân dung của bà TP. Quan hệ anh chị em giữa họ là để “thanh toán” những
di sản quá khứ, không phải để tưởng niệm hay hàn gắn (31). Họ ngồi cùng nhau
trong một một sự nhìn lại (nhau) không dễ dàng hay đơn giản (31). Đó là
quan hệ trút trách nhiệm cho nhau: người này buộc người kia phải ở lại nhà chăm
sóc mẹ. Đó là quan hệ kết án nhau: người này “tưởng” người kia phải trở về sớm
nhất để lo ma chay. Đó là quan hệ phủ nhận nhau: Sĩ không nhận Liên là em. Đó
là một quan hệ gần đến mức loạn luân khi Sĩ chửi Liên là “đồ điếm” mà không biết
rằng ông đã tới tìm Agnes Liễu – tên nghề nghiệp của Liên để mua hoa- và bị
Liên từ chối không tiếp. Đó là quan hệ coi nhau như đã chết, hoặc như người lạ
mặt: “Tôi chỉ là con nhà Thịnh Phước trên giấy tờ” (22). Còn Liên thì là “Một đứa
con mồ côi đối với tất cả mọi người trong gia đình” (21). Anh em họ chấp nhận sự
ghẻ lạnh trong liên hệ: “Chúng ta sống theo đời mình. Nên chết không cần ai
thương và sống không ai thương được” (35).
Cách
nhìn về quê hương đã thay đổi, tùy theo thế hệ:
-
Liên nhìn Tây Phố và thấy “những mặt nhà ngô nghê,” “những ruộng muối bằng phẳng
từng bậc” về mé biển. Quê hương trong TTMĐ là một “mô hình bằng giấy bìa” tẻ nhạt,
một “quê hương không phải nhà ở, không phải cửa hàng, lưng chừng sự nghèo nàn
tiều tụy và sự đảm đang muộn màng” (10).
-
Quê hương là một thị trấn “xác xơ âm thầm trong những cơn mưa nhạt nhẽo” (Viên
Linh 10). Và kiến trúc nổi bật nhất từ trong chuyến xe đò nhìn ra là “đài tử sĩ
ở giữa tình nhô cao hơn tất cả” (10). Với đài tử sĩ, quê hương bây giờ mang nặng
dấu vết của chiến tranh.
-
“Quê hương Tây Phố chúng ta chưa đủ tư cách để đào tạo những gì gọi là nhà nghề,
trên lãnh vực nào cũng thế. Nó chưa là một thành phố, nó mới là một thị trấn
đang cố thích nghi với đồ dùng nhập cảng” (Viên Linh 42). Quê hương ở đây bị
đánh giá trên tiêu chuẩn của chủ nghĩa tiêu thụ và đế quốc. Quê hương đã không
còn thuần túy là chính nó khi bị đặt trong bối cảnh thời chiến và những ảnh hưởng
ngoại lai. Quê hương là một “thị trấn nhỏ nằm ven Quốc lộ số Một, về mé biển,
thuộc miền đông cao nguyên Trung phần” (9). Quê hương là thị trấn miền Đông
nhưng sao lại có tên là Tây Phố? Có phải Viên Linh muốn nói đến một thứ “phố
Tây” đang hình thành trong tâm thức mỗi người dân thị trấn?
Quê
hương trong lần trở về của Liên, người con gái Sài Gòn ăn chơi, gây cảm tưởng
buồn bã và xa lạ, “ngôi nhà thời thơ ấu hình như lén lút trong những hàng cây
che phủ,” “những tàn cây rậm rạp xum xuê có cái nín thinh của một buổi chiều xa
lạ, cái nín thinh của một bóng tối không quen mặt”(13). Quê hương bây giờ đồng
nghĩa với một quá khứ buồn tênh và bị bắt buộc phải lặng câm.
Trong
bốn nhân vật, chỉ có người anh cả- Học- không chấp nhận việc chặt đứt quá khứ.
Học trách móc các em về “cái thứ đánh đĩ chín phương… cái thứ tâm trạng lớn lên
ở chỗ khác không quê hương không quá khứ” (40). Ông muốn duy trì, muốn đóng
khung, ở Tây Phố, một hình ảnh trang trọng của quá khứ gia đình và dòng tộc.
Nhưng Học, ở vị thế một chính khách thường xuyên phải lánh mặt để tránh bị phiền
phức với chính quyền, Học đã muốn một điều nằm ngoài khả năng của ông. Con người
cách mạng của Học như thế là con người không tưởng. Và cuộc cách mạng ông theo
đuổi, trong ám chỉ của Viên Linh, hẳn cũng thế. Những nhân vật tiêu biểu trong
xã hội miền Nam được khái quát hóa trong TTMĐ bằng những nét phác mang tính
liên tưởng. Người đọc tìm thấy sự bất xứng giữa điều họ theo đuổi, điều họ thừa
nhận, và điều họ thực hiện ở thời điểm đó, được phơi bày với dự cảm rất chính
xác của nhà văn. Người em kế, một trí thức như cái tên Sĩ của ông, giám đốc các
trường tư thục, người dùng chữ “khai thác” cho việc mở trường học, người tìm
cách ứng cử để trục lợi, tất nhiên phải chạy theo những cơ may của thời thế. Sĩ
là người bỏ đi đầu tiên, tuy xác mẹ chưa tìm thấy lúc đó. Và lý do- như Sĩ đã
khẳng định: “mấy trăm ngàn đối với tôi là cái chó gì?”- có lẽ đúng thật. Sĩ ra
đi mang theo tấm hình của bà TP, tấm chân dung lộng kiếng đã bị bể sau trận xô
sát giữa Sĩ và Hiệp. Đây là một việc làm dường như của “kẻ sĩ”, kẻ thích giữ những
chứng tích, giơ cao những biểu tượng, dành những vinh hạnh, và không phải cực
nhọc mảy may đào xới và chôn cất. Hiệp là thế hệ trẻ hơn hai mươi năm, chính là
thế hệ của tác giả, như chính nhà văn Viên Linh đã xác nhận. Hiệp cũng như
Liên, chán chường, già trước tuổi, nghi hoặc mọi giá trị, nhiều tình cảm, và
cũng dễ tổn thương, dùng sự thờ ơ hay bất cần đời để tự bảo vệ mình. Bốn anh
em, như cách nói của Liên, là bọn lợi dụng (Sĩ), bọn khí tiết (Học), bọn dửng dưng
(Hiệp/ trôi theo dòng nước), và bọn thỏa hiệp- Liên nói về chính cô trong tư thế
“mắc kẹt” ở lại để lo việc an táng và cáng đáng những công việc lẽ ra phải do
những người con trai và con ruột đảm nhiệm: giải quyết gia tài của mẹ. Nhưng rốt
cuộc ai sẽ thừa nhận di sản? Di sản đó chia chác ra sao? Đó là một di sản suy
tàn, nơi mà người ta chỉ muốn chôn vùi thi thể Mẹ như “vùi đi một tàn tích lỗi
thời” (40).
Viên
Linh đã lưu ý người đọc về cái “tàn tích lỗi thời” và rất dễ nhận ra đó là một
quá khứ gần, nhưng đã thuộc về một giai đoạn lịch sử khác. Tàn tích lỗi thời
vào thời điểm năm 1963 ở miền Nam là bóng tối của “100 năm đô hộ giặc Tây” và
những di sản hậu thuộc địa mà Dương Nghiễm Mậu đã chất vấn trong GTNM. Tôi sẽ
còn quay lại với đoạn kết ly kỳ của TTMĐ ở phần cuối bài thuyết trình này.
Nhưng nếu trong TTMĐ người ta có hy vọng vùi lấp đi cái quá khứ buồn thảm ấy
thì trong GTNM của Dương Nghiễm Mậu những vết nhơ của quá khứ và lịch sử dân tộc
vẫn tồn tại ngay trong tâm thức của anh em một nhà và thể hiện ngay trong quan
hệ giữa họ với nhau.
2.
Di Sản Hậu Thuộc Địa
Gia
Tài Người Mẹ theo
nhận định của nhà phê bình Thụy Khuê :
«
Tiểu thuyết Gia tài người Mẹ trình bày cục diện một dân tộc trước những xâu xé
đớn đau gây ra bởi chính những đứa con thoát thai trong lòng dân tộc ấy : Một
người mẹ trước khi chết gọi tất cả các con ở xa về để trối trăn và chia gia sản.
Gia tài người mẹ, của Trịnh, (…) «là nước Việt buồn ». Gia tài người mẹ,
của Mậu, không chỉ là nước Việt buồn, mà là một đất nước trống rỗng, anh em giằng
xé, tranh quyền làm chủ. Trong cái gia đình thoái hóa tồi tệ ấy, mỗi người xướng
lên một thoại. U già, bà mẹ, và bốn người con : Thạch, Nhược, Nhẫn, và Tuấn, mỗi
nhân vật đều xưng tôi, đều kể chuyện nhà dưới cái nhìn chủ quan của mình. Người
mẹ, rách nát thể xác và tâm hồn, trải hai đời chồng (cả hai đều tham gia cách mạng
nhưng dưới những ngọn cờ khác nhau), với những đứa con riêng, con chung. Người
chồng đầu chết trong nhà lao, người chồng thứ nhì trở về thân tàn ma dại, nghiện
ngập, yếu đau, bị lính lê dương giết trước khi hãm hiếp vợ, sinh ra đứa con lai
là Nhẫn. Đó là hình ảnh bầm tím, khốn cùng của mẹ Việt Nam mà người đọc có thể
mập mờ chắp vá lại qua những mảng độc thoại nội tâm, đối thoại với người chết,
trách móc, oán hờn, của mỗi nhân vật, gọi là mập mờ chắp vá, bởi không có một sự
thật mà có nhiều sự thật khác nhau, tùy theo cách nhìn và cảm quan của mỗi người.
Bên giường mẹ hấp hối, lũ con tiếp tục cãi vã, đánh lộn, thậm chí giết nhau,
giành giật quyền có lý, phần thắng, quyền sở hữu ngôi nhà dột nát trống trơn
không còn gì trừ hận thù và đói khổ. Cái gia tài tàn mạt ấy, còn bị cưỡng bách
thông gia với những gia tài khốn khổ hơn của một loạt những dân tộc nhược tiểu
khác, cũng bị đô hộ như mình, cũng phải đánh thuê, giết mướn, tạo ra những đứa
con vô thừa nhận như Nhẫn » (http://thuykhue.free.fr/stt/d/dnmau01.html)
Trong
di sản của « nhược tiểu, đói khổ, kỳ thị, dốt nát » mỗi nhân vật của GTNM đều
dành cái quyền được làm người duy nhất đau khổ, hoặc người chịu nhiều đau khổ
nhất, quyền làm nạn nhân, để phủ nhận nỗi đau của người khác, để giữ gia tài về
phía mình. Họ đau khổ vì dòng máu trong người họ. Các nhân vật sống dưới cái
nhìn đầy thiên kiến về màu da, sự tranh chấp của các thứ chủ nghĩa, sự hung bạo
của di sản thuộc địa. Gần như Liên của TTMĐ, những người con trai trong GTNM của
Dương Nghiễm Mậu bỏ đi vì họ không tìm được chỗ đứng trong lòng ngôi nhà của họ,
vì họ mang mặc cảm không phải là người mang trọn vẹn dòng máu “thuần chất” của
một cha một mẹ, vì họ là những đứa con cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ,
hoặc khác cả cha lẫn mẹ. Hoặc vì sự có mặt của những dòng máu không chính thống,
hoặc kém chính thống so với họ. Họ bỏ đi vì không thể chấp nhận Nhẫn, một người
em gái lai Tây đen, kết quả của một cuộc hãm hiếp và coi cô như một thứ tai
ương: “Gánh nặng của tôi chính là đứa cháu mồ côi và đứa em cùng mẹ khác cha
này, một đứa em lai đen.” Trong GTNM có một thứ một thứ gia tài khác trong liên
quan đến thân phận đất nước, đó là di sản của màu da và giới tính- sản phẩm của
chủ nghĩa thuộc địa sau 100 năm thống trị của Pháp ở Việt Nam. Nếu quan hệ mẹ
con trong TTMĐ có thể đọc như một ẩn dụ của quyền lực và áp chế trong mọi cấu
trúc xã hội, thì trong GTNM với sự có mặt của Nhẫn trong truyện như một “vết
nhơ” của lịch sử, quan hệ mẹ con và những nỗ lực thoát ly khỏi gia đình của những
người con trở thành biểu tượng của một tinh thần dân tộc muốn phủ nhận quá khứ
bị trị và những di sản của chế độ thực dân. Trong cả hai truyện GTNM và TTMĐ,
quan hệ mẹ-con là một quan hệ phức tạp, lẫn lộn nhiều thứ tình cảm xung đột- một
quan hệ tương tự giữa nước thuộc địa và nước bảo hộ, nước thống trị và nước bị
trị, một đế quốc với những quốc gia nhược tiểu rơi vào vòng kiểm soát kinh tế,
quân sự, chính trị của đế quốc đó. Đó là xung đột khi mẫu quốc muốn nước thuộc
địa là một hình ảnh nối dài của chính nó, và mâu thuẫn khi nước thuộc địa tìm
cách thoát ly khỏi ảnh hưởng của mẫu quốc để khẳng định bản sắc và sự độc lập của
mình. “Chúng ta sống trong sự bất công của mẹ và chúng ta không thể chịu đựng
mãi” (Viên Linh 31). Mâu thuẫn xảy ra khi mỗi người con lớn lên theo một cách
riêng và điều đó làm người mẹ đau lòng, “đau lòng một cách chính đáng”, và làm
chính họ cực nhọc, “cực nhọc một cách vô lý” (Viên Linh 31).
Dương
Nghiễm Mậu đã dùng người mẹ như ẩn dụ về dân tộc qua những lần “kết hôn” với những
thể chế khác nhau: chế độ thuộc địa (qua ẩn dụ bị cưỡng hiếp), ý thức hệ cộng sản
chủ nghĩa và lý tưởng tự do của miền Nam (qua ẩn dụ nhiều đời chồng và khuynh
hướng chính trị khác biệt của những người con)… Nhưng ngay tại thời điểm 2014
này, GTNM lại đưa ra một chiều kích lịch sử khác. Cuối truyện GTNM là cảnh bóng
tối bao trùm và những người con ngồi nghe tiếng chân của những kẻ lạ mặt tiến lại
gần. Vào thời điểm đó Dương Nghiễm Mậu muốn ngụ ý những thế lực quốc tế của hai
khối cộng sản và thế giới tự do đang tranh giành ảnh hưởng trên phần đất gia
tài của Mẹ. Hơn 30 năm sau, chúng ta không thể nào không liên tưởng đến tình trạng
đất nước ngày hôm nay với sự có mặt của những kẻ lạ đã hiện diện ngay trên
chính quê hương.
3.
Di Sản của Căn Cước bị Xa Lạ Hóa
Các
khái niệm đồng dạng và dị biệt luôn có mặt trong quá trình hình thành căn cước
cá nhân và hòa nhập với cộng đồng. Trên một bình diện lớn hơn, hầu hết nhận thức
về bản thân của mỗi cá nhân đều hình thành hay ít nhiều ảnh hưởng bởi những quy
ước xã hội về sự khác biệt giai cấp, màu da, hay giới tính… Khái niệm “kẻ khác”
(Otherness) thường được sử dụng như công cụ khảo sát căn cước xã hội của những
nhóm đa số và thiểu số trong ngành xã hội học. Nhóm thiểu số thường bị nhóm đa
số- vốn nhiều quyền lực hơn- chi phối, áp chế, coi nhẹ, và bị dán nhãn hiệu
chung đồng dạng (chẳng hạn trong xã hội Hoa Kỳ, người da đen bị coi là lười biếng
và bạo động, người Á châu luôn luôn cần cù và thụ động). Khi nhóm đa số mặc
nhiên coi họ như nhóm nắm giữ tiêu chuẩn chung, những khác biệt (nếu thật sự
có) của nhóm thiểu số sẽ trở thành những yếu tố bị coi là xa lạ trong xã hội,
và đặt nhóm thiểu số vào vị trí của “kẻ khác” hay “kẻ lạ”. Quá trình tự xa lạ
hóa thường xảy ra khi những cá nhân của nhóm thiểu số chấp nhận cách nhìn của
xã hội và họ cũng nhìn chính họ như thế (thường là cái nhìn mang tính tiêu cực).
Căn
cước cá nhân là một vấn đề dằn vặt những người con trong GTNM và TTMĐ. Một mặt,
họ nhìn chính mình bằng đôi mắt thành kiến của xã hội. Mặt khác, cách họ nội
soi bản thân lại khác lạ và xung đột với cách xã hội định nghĩa họ. Từ đó xảy
ra việc con người trở nên xa lạ với chính mình qua nhiều tầng cấp. Quá trình
“xa lạ hóa” xảy ra với tất cả, nhưng nó hiện hình rõ rệt nhất trong những phân
loại về giới tính, màu da, và giai cấp. Nhẫn trong GTNM mang trong người tất cả
những xung đột mâu thuẫn này. Khi biết mẹ sắp mất, Nhẫn quyết định tự tử trước
vì cô không hình dung được đời sống mình sẽ ra sao khi mất mẹ. Vì cô chỉ có mẹ
là người thành thực thương yêu mình. Giữa Nhẫn và Mẹ không có phân cách. Để sự
hiện hữu của mình mang một chút giá trị chính thống, Nhẫn chỉ có cách duy nhất
là nhìn chính mình như “con của Mẹ” và nếu không còn mẹ thì cũng không còn cô nữa.
Việc xa lạ với chính cơ thể mình, màu da mình, với nguồn gốc mình, ngay trong
gia đình mình, ở trường hợp Nhẫn là di sản nặng nề nhất. Những người con còn lại,
trong một mức độ nhẹ hơn, cũng bị vấn đề căn cước cá nhân dằn vặt (Thạch, Tuấn)
và họ không thể dàn xếp được xung đột giữa cách họ nhìn chính họ và cách họ bị
nhìn nhận dựa trên liên hệ với mẹ và gia đình. Không phải là họ thờ ơ với nhau
như các anh em trong TTMĐ, trái lại những người con trong GTNM quá quan tâm tới
nhau, quan tâm nhất tới những dòng máu khác biệt chảy trong người nhau. Họ bị rối
loạn bởi những yếu tố di truyền, dị biệt, đồng chủng vốn được định nghĩa theo
truyền thống. Ai là con cha, ai là con mẹ, ai là con chung của cha và mẹ, và ai
chính thống hơn ai? Họ phủ nhận nhau, tìm cách triệt tiêu nhau, là để giải trừ
những lo lắng của chính họ về bản thể mình. Họ nhìn nhau như người lạ và nhìn
chính mình như kẻ lạ. Nhẫn tự hủy mình vì không thể khẳng định hay chấp nhận
chính mình, vì cách cô nhìn chính mình đã bị “lạ hóa’ do thành kiến và kỳ thị của
bên ngoài. Nhẫn có thể biết giữa cô và những anh em kia không có gì khác biệt
trên căn bản một con người, nhưng cô không thể nói lên đều đó vì ngoại hình và
màu da đen của cô. Quá trình “tự xa lạ hóa” đã xảy ra khi cô phải đối mặt với
câu hỏi về ranh giới giữa cơ thể mình và những gì còn lại.
Cô
tự hỏi, “Lịch sử của họ thế nào? Nhưng vô ích, tôi chẳng thể biết được trên
mảnh đất Phi Châu rộng lớn kia bố tôi ở vào vùng nào? Mà có biết chăng nữa thì
cũng có ích lợi gì đâu, cần thiết gì đâu. Bố tôi chỉ là một kẻ lạ mặt không
tên, không hình dáng, không tiếng nói, không hơi thở, chắc đó là một kẻ da đen
khốn cùng nô lệ trong một đời sống nhiều đê nhục khốn khổ, và bố tôi cùng những
người đồng loại không phải là những người đi chinh phục, chiếm đóng mà chỉ là
những người nô lệ, bị trí dưới quyền uy sức mạnh của người da trắng, như chính
quê mẹ tôi trước kia.”
Luôn
luôn, cùng với di sản màu da là sự xuống cấp trong bậc thang xã hội, của “một kẻ
da đen khốn cùng nô lệ” và một chủ nhân da trắng với sức mạnh quân sự, kinh tế,
và văn hóa. Với cái nhìn thấu suốt lịch sử chế độ thuộc địa, điều Dương Nghiễm
Mậu viết ra vào thời điểm 1963 vẫn còn đúng trong thế kỷ này. Di sản hậu thuộc
địa là một đòn giáng nặng nề. Cho đến bây giờ, những quốc gia Phi Châu, châu Mỹ
Latin, nói chung là thế giới thứ ba như Haiti, và Việt Nam, vẫn chưa thể nào hồi
phục. Trong “Ăn Chịu Thử Một Lần” (ĂCTML) của Minh Quân, bé Tâm, lai Mỹ đen, mồ
côi mẹ, bảy tuổi, làm con ở không công cho gia đình cậu. Tâm bị bỏ đói, bị ngược
đãi, bị mắng chửi, bị hành hạ đánh đập. Tâm ở vị trí hạng bét trong nhà, thấp
hơn cả u già, cả chị bếp, vì màu da của nó. Khi khách đến chơi Tâm không có quyền
bưng nước trà lên nhà trên mời. Tâm là một vết nhơ cần phải chối bỏ. Trong
GTNM, Thạch xấu hổ với bạn bè nên đã nói Nhẫn em gái mình là người ở trong gia
đình. Trong trường hợp Nhẫn và Tâm, máu mủ ruột thịt đã bị lạ hóa bởi di sản hậu
thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc, đến mức máu mủ gia đình không bằng người dưng
nước lã trong những giai cấp thấp hơn. Trong GTNM, việc lạ hóa với bản thân là
kết quả của một quá trình lạ hóa đến từ các thế lực quốc tế bên ngoài. Trong dự
cảm của tác giả Dương Nghiễm Mậu, việc lạ hóa này đi xa hơn khuôn khổ hai mươi
năm Văn Học Miền Nam 1954-1975. Nó đi theo dân tộc Việt Nam cho đến tận giờ
này, trong tình hình kinh tế, chính, trị, xã hội, văn hóa bị những ảnh hưởng
ngoại lai xâm nhập. Tính chính thống độc quyền của văn học trong nước, việc dịch
thuật thoải mái những tác phẩm văn học thế giới (một điều nên làm), và sự tiếp
tục phủ nhận nền văn học miền Nam 1954-75, tất cả lả những bằng chứng cho việc
lạ hóa trong tương tác giữa chủ nghĩa dân tộc độc quyền, ý thức hệ, và các thế
lực toàn cầu.
Quá
trình lạ hóa xảy ra khi con người đánh mất hay bị tước đoạt quyền làm chủ không
gian và chỗ đứng của mình. Những nhân vật của Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Minh
Quân, và Trùng Dương đều là kẻ lạ trên quê hương bị chiến tranh tàn phá. Trong
TTMĐ, Liên làm điếm, xuất hiện ngay đầu truyện với “nụ cười kiêu hãnh làm mặt lạ”
với nơi mình sinh trưởng (Viên Linh 12). Trong”Cuộc Chơi Đã Kết Thúc”, Bích của
Trùng Dương muốn sống như kẻ xa lạ của Albert Camus. Tuấn của DNM trong cơn
hoang tưởng đã cầm dao giết người và khi tỉnh lại anh nhận ra người bị giết
chính là mình, mình đã giết chính mình. Còn những người con của TTMĐ- khi trở về
Tây Phố- nhận ra họ mới chính là người lạ mặt ở ngay trong lòng quê hương, là
người lạ ngay trong ngôi nhà của Mẹ bởi họ trở về như khách mời trước mắt dân
Tây phố, họ về theo thư mời của ông Chưởng Khế, và năm lần bảy lượt nhân viên của
Hội Đồng Tỉnh đến nhà triệu họ ra trụ sở bàn chuyện. Ở TTMĐ, Học người anh cả
muốn giữ nguyên căn nhà, muốn là người cuối cùng ở lại, muốn duy trì những giá
trị truyền thống. Ở Học là một thứ quyền uy gia trưởng lỗi thời, là dạng ra mệnh
lệnh, dùng lý tưởng áp đặt lên người khác, nhưng lại phủi tay khi cần bảo vệ
tính mạng. Ở Học, hành động và lời nói không đi với nhau, ước muốn và thực tế
xa lạ với nhau. Ở Học nhà cách mạng, cái sứ mạng xã hội mà ông theo đuổi đã góp
phần vào sự xa lạ giữa Học và những giá trị gia đình/quê hương/quá khứ của ông.
Trong cả GTNM lẫn TTMĐ, giới tính nữ đã bị lạ hóa trong môi trường gia đình
toàn những người con trai. Liên- khi mất khẩu súng về tay Học- cô trở thành người
bị tước mất quyền lực, một điển hình của việc quay lại tôn ti trật ti trong chế
độ phụ hệ gia trưởng. Trong TTMĐ, phần gia tài của mẹ mà Liên được hưởng là một
trăm ngàn đồng, bằng phần tiền của lão gia nhân. Giới tính nữ luôn bị đẩy về
phía phải khuất phục, chịu đựng, thiệt thòi, ngay cả khi người mẹ bị hiếp dâm
thì xã hội lại quay trở lại hành tội chính nạn nhân (GTNM). Giới tính nữ bị
phân biệt đối xử nhất khi họ rơi vào những thân phận bất hạnh bên lề. Khi hiện
hữu của họ bị coi là phản quy ước, không đồng bộ, thì sự trừng phạt xảy ra, nói
chung, vì họ khác mọi người, vì họ là họ trong thế yếu. Sự trùng hợp ở đây là
những nhân vật này đều mang giới tính nữ, đều ở vị trí không chính thống, như
con ghẻ, hay con mồ côi, và/hay con lai da đen, con bị từ khước, và trùng với
đáp án rằng giới tính nữ là một yếu tố xa lạ, cũng như yếu tố chủng tộc/ màu
da, và giai cấp đã nói ở trên. Khi chúng ta nhìn nhau khác đi, thì cùng lúc
chúng ta đã đánh mất chính mình trong quá trình bị xa lạ hóa. Trường hợp này đã
xảy ra cho những người anh em của Liên, của Nhẫn, khi họ nhìn vào ruột thịt mà
chỉ thấy giai cấp, thấy màu da, thấy sự nhục nhã của giới tính nữ (nghề nghiệp
của Liên, vị trí con ghẻ của Liên). Tôi liên tưởng đến câu nói của Carlos
Fuentes trong The Burried Mirror: “Con người và văn hóa của họ sẽ hư
hoại trong sự cô lập, nhưng họ sẽ sinh trưởng hay tái sinh thông qua giao tiếp
với những con người trong những văn hóa khác, nguyên lý khác, chủng tộc khác. Nếu
chúng ta không nhận thấy nơi người khác tính nhân bản của mình, hẳn chúng ta sẽ
không tìm thấy sự nhân bản trong chính chúng ta.”
4.
Định Nghĩa lại Gia Tài
Đêm
Nghe Tiếng Đại Bác (ĐNTĐB) của Nhã Ca là một thể hiện của việc nhìn thấy chính
mình trong người khác, cách thức hữu hiệu để tìm ra sự nhân bản trong mọi quan
hệ. Như Nguyễn Mạnh Côn đã viết trong phần mở đầu, quan hệ anh chị em và cha mẹ-con
cái ở đây thật lý tưởng, tất cả đều quan tâm và yêu thương nhau. Gia đình ở đây
là một đơn vị đúng nghĩa:
“Tiếng
đại bác trong đêm gợi ý chiến tranh, mà tôi nghĩ đến chiến tranh rất ít. Phan
đi lính. Phan chết trận. Nghĩa đi lính. Nghĩa mất tích. Bữa chả giò để mừng
Phan nhưng cũng để tiễn Hoàng đi Thủ Đức. Không kể Mẫn, Đông, Đảo… rất nhiều
truyện lính tráng và tiếng đại bác trong đêm. Nhưng trong khi đọc, và sau khi đọc
xong tác phẩm của Nhã, cái mà người ta nhớ nhất, mà người ta thương yêu hay ao
ước hơn cả, là gia đình. Ông bố, bà mẹ, Phượng, Quyên, Kim, Hoàng – với cả
Phan, Nghĩa và Mẫn – mỗi người đã giữ đúng vai trò của mình. Vai trò bà mẹ cố
nhiên có phần trội hơn vai trò của ông bố, cũng như Phan tuy vắng mặt mà
"hiện hữu" hơn Hoàng, nhưng tất cả những vai trò ấy không riêng lẻ,
không cô đơn, kể cả Mẫn ra đi thật buồn. Tất cả họp lại thành một gia đình,
cùng một số người thân, đang chịu đựng chiến tranh. Sự chịu đựng không nói
thành lời ấy dai dẳng, mà cái chết tàn nhẫn của Phan không cắt đứt được: Phan
chết, đã có Hoàng thay thế. Sự chịu đựng tiếp tục. Chịu đựng như thế có phải
đâu là tiêu cực.
Con
người bằng cách tụ họp thành những đơn vị lớn hơn, đang chống trả thắng lợi với
ý chí tiêu diệt của chiến tranh – ngoại cảnh.”
Những
nhân vật của ĐNTĐB nhìn họ như một phần tử của gia đình, họ nhìn chính mình qua
tương quan với nhau, một tương quan hòa hợp, khác với TTMĐ hay GTNM. Có thể cho
rằng khác biệt này một phần đến từ giới tính của người viết, hay đúng hơn là
vai trò gia đình/xã hội mà giới tính nữ đảm nhiệm đã ăn vào tâm thức và thể hiện
qua trang viết. Nhã Ca nhìn chiến tranh từ góc độ người phụ nữ, người mẹ, người
em, người tình trong vai trò nuôi dưỡng, chăm sóc, đan áo, thêu khăn, nấu nướng,
đi ủy lạo những người cô quả…, những công việc thiết yếu cho đời sống nhưng nam
giới không khả năng hay không muốn thực hiện. Giai cấp trong ĐNTĐB hầu như chỉ
có lính và không-lính, thể hiện qua việc nhân vật Quyên nhìn về lính trước và
sau khi anh Phan của cô nhập ngũ. Giới tính trong ĐNTĐB thể hiện qua hình ảnh một
bữa tiệc do những người phụ nữ chuẩn bị để những người đàn ông của ông thụ hưởng.
Di sản của Mẹ trong ĐNTĐB nói chung mang tính thuần chất. Trừ câu chuyện một
người tên Vạn- lai Mỹ đen- quay trở lại đốt ngôi chùa nơi mẹ mình tu hành (một
bằng chứng nữa về cái nhìn màu da/ chủng tộc trong di sản chiến tranh) thì gia
tài trong ĐNTĐB không để chia năm xẻ bảy mà để cùng chung hưởng. Đó không là một
gia tài để dành dật mà là một gia tài cần có mọi thành viên. Tiêu biểu là bữa
tiệc chả giò của Mẹ dời từ tuần này sang tuần khác để đợi Phan và Nghĩa. Gia
tài của Mẹ ở đây không là vật chất mà là tinh thần, sự nuôi dưỡng, và bồi đắp.
Như
vậy để định nghĩa lại gia tài, có phải đó là một sự mồ côi cả về tinh thần lẫn
vật chất như trong ĂCMLT của Minh Quân? Đó có phải là sự tranh giành và khẳng định
tính chính thống trong GTNM của Dương Nghiễm Mậu? Hay đó là một bữa tiệc mà
nhân vật được mời không xuất hiện như trong ĐNTĐB của Nhã Ca? Và vắng một người
là vắng tất cả, và không thể nào có sự loại trừ nhau, phủ nhận nhau, mà mỗi người
chúng ta còn giữ nguyên vẹn di sản của chính mình?
Truyện
ngắn “Cuộc Chơi Đã Kết Thúc” của Trùng Dương đưa ra một cách nhìn siêu hình hơn
về gia tài của Mẹ. Nhân vật chính trong ngôi thứ nhất là Bích, một phóng viên,
một người có cá tính độc lập, không muốn sống theo quy ước chung của xã hội
(con gái đến tuổi phải có người yêu, lập gia đình, có con cái…). Tuy vậy để làm
vui lòng người cha đang hấp hối, cô đã nhờ một anh bạn thân đồng nghiệp đóng
vai người yêu đến trình diện người cha trước khi ông qua đời. Truyện viết vào
mùa xuân 1975 với bóng dáng của cuộc chiến được nhắc đến thoáng qua. Hãy nghe
tác giả Trùng Dương nói về bối cảnh ra đời của truyện CCĐKT:
“…Viên
Linh muốn có bài của tôi đăng trên Thời Tập Mùa Xuân 1975 mà tôi thì từ ngày nhảy
ra làm tờ ST ngất ngư với những thăng trầm của nó, có sáng tác được gì đâu. Đã
gần ngày phải giao bài, một bữa ngồi tại tòa soạn, ngắm ký giả Hùng Phong đầu
hói, nhỏ bé, vui tính và nữ văn sữ kiên ký giả Thục Viên mà tôi rất mến, có
dáng cao lớn, tính tình ngay thực bốp chat- tôi viết cong cái truyện nội một buổi
sáng, đọc phớt qua, rồi nhờ người mang lại tòa soạn TT.
Hùng
Phong và Thục Viên quen biết nhau rất sơ sài qua tình đồng nghiệp nhưng tôi cho
hia người đó là bạn thân trong truyện. Đó là câu chuyện về một nữ ký giả không
lấy gì làm nổi lắm, nhưng độc lập, có người cha vì tính tình quá ngay thực nên
suốt đời chỉ gặp toàn những đổ vỡ, thất bại, và một bà chị góa chịu đựng, làm
chủ một tiệm bán hoa giả. Câu chuyện xoay chung quanh cái chết dần mòn của người
cha vào một dịp cuối năm khi tất cả mọi người đều vội vã như thể cái Tết có khả
năng ‘ngắt thời gian ra làm hai và khiên cho ai nấy vội vã như thể ngày mai sẽ
không bao giờ đến nữa.’
Tôi
muốn nói về cái cuộc chiến tuy không được đề cập đến trong truyện nhưng ẩn hiện
qua từng nhân vật: người cha đại diện cho thế hệ gồm những hư sự chỉ vì thực
thà, cả tin; người con gái lớn đại diện cho cái thế hệ chịu đựng của những người
đàn bà thời chiến, người con gái thứ hai tức người nữ ký giả đại diên cho cái
thế hệ đang lớn, bơ vơ, xa lạ, nửa muốn phá phách, nổi loạn, nửa muốn cười dài
trong quên lãng dửng dưng.”
(“Thạch
Trung Giả, Một Cái Hẹn Không Bao Giờ Còn Được Thực Hiện”)
Người
mẹ của Bích đã qua đời nhưng bà xuất hiện trong truyện bằng sự vắng mặt của
mình. Qua cách kể thoáng qua về mẹ, nhân vật Bích nói một cách gián tiếp sự mất
mát mẹ của cô, và vì vậy, chính đời sống của cô, phản chiếu qua sự mất mát đó.
Bích có nhiều cơ hội để cặp bồ hoặc lấy chồng nhưng cô đã “bỏ qua”- một sự bỏ
qua với chủ định sống theo kiểu “người-khách-lạ”. Chị của Bích đã tiếc khi Bích
vì “lười biếng” đã lỡ một cơ hội lấy một phóng viên ngoại quốc.
“Riêng
tôi, tôi khoái tỉ với trò chơi làm-người-khách-lạ kiểu Camus trong cuộc sống.
Và trong thâm tâm thì tại tôi… lười, lười đủ thứ, lười cả yêu đương cả chồng
con. Tôi vốn tuổi Mèo và tôi cũng yêu giống Mèo lắm, coi nó như một nhà hiền
triết. Ở phòng ngủ của tôi, tôi có treo một tấm hình con mèo ngồi lơ mơ trên một
bức tường đổ lỗ mỗ những vết dạn vào một buổi trưa, tấm hình được phóng lớn do
một nhiếp ảnh viên ngoại quốc chụp và tặng tôi (hồi đó nếu tôi không lười viết
thơ cho anh ta, nếu tôi không lười lo giấy tờ xuất ngoại thì tôi đã là vợ anh
ta rồi. Bà chị tôi nhắc hoài về chuyện đó, cho rằng tôi đã bỏ lỡ một cơ hội tốt
vì bà cho rằng đàn bà Việt lấy chồng ngoại quốc là tiên).”
Bích
không có một kiểu mẫu người Mẹ để chống đối như trường hợp Liên trong TTMĐ hoặc
để làm thần tượng như Nhẫn trong GTNM. Vì thế cách cô suy nghĩ/ nhìn/ soi rọi về
bản thân mang tính độc lập và thể hiện ý thức tự chủ một cách tự nhiên, trong
đó có việc tự chăm sóc đời sống tinh thần và trí tuệ của mình. Việc không có mẹ
trở nên tích cực khi Bích có thể thành “mẹ của chính mình” qua hành động tự
chăm sóc mình. Việc “lười cả yêu đương cả chồng con” chính là thái độ cô chọn lựa
để sống như một nhà hiền triết, hoặc một kẻ xa lạ, nghịch với các quy ước xã hội.
Từ chối không thuộc về một người đàn ông nào là hành động khẳng định quyền sở hữu
bản thân. Từ chối không lấy một người chồng ngoại quốc là một thái độ, của
Bích, để thách thức những quyền lực áp chế của chủ nghĩa đế quốc Mỹ đang bành
trướng, và để giải trừ những di sản hậu thuộc địa như trong trường hợp Nhẫn,
người con gái lai tây đen, trong GTNM.
Trong
liên kết với khái niệm Mẹ, mà Bích không có mẹ, tôi chú ý đến chi tiết Bích giả
bộ nói chuyện với hồn ma của mẹ. Mỗi lần Bích nói chuyện với hồn ma của mẹ hay
người anh rể chết trong trận Hạ Lào năm 1970 thì cô moi được tiền của người chị
có cửa tiệm bán hoa giả. Có nhiều thứ giả trong truyện: hoa giả và vị hôn phu
giả, cuộc trò chuyện giả với người chết, và hồn ma (người mẹ/ người lính) cũng
là giả nốt. Nhưng số tiền cô lấy được từ người chị thì có thật. Và đó có thể là
một thứ gia tài của mẹ để lại cho Bích. Một gia tài trừu tượng, phi vật thể,
như bóng ma của mẹ, như ám ảnh của cuộc chiến, như sự quái dị của một “cuộc
chơi đã kết thúc” mà tác hại của nó vẫn còn đó hoặc biến dạng đi, ghê gớm hơn,
hung hãn hơn.
Truyện
chấm dứt trong nghĩa trang ngày 30 Tết, đám tang cha Bích diễn ra vội vã để mọi
người còn về nhà ăn Tết:
“Mọi
người đã ra về và Hồ Vân tần ngần đứng cạnh tôi dường như cũng muốn chuồn nhưng
không nỡ bỏ tôi một mình. Tôi bỗng cảm thấy không muốn anh ta bỏ tôi. Tôi níu
tay anh ta ngồi xuống một nấm mộ cũ làm anh ta như ngồi phải một đống lửa. Cuối
cùng, anh ta bảo tôi:
-
Thôi, về đi, má.
Tôi nói thành thực:
Tôi nói thành thực:
-
Ngồi nghỉ một lát đã. Anh đâu thể bỏ tôi một mình.
-
Ý! bộ má nói thiệt đó hả?
-
Thiệt thì sao?
-
Thôi mà má. Má cho con về để con sửa soạn tết nhất chớ.
Tôi
trừng trừng nhìn anh ta. Có lẽ cái khung cảnh nghĩa trang xung quanh đã khiến
cho cái nhìn của tôi có vẻ ghê khiếp liêu trai sao đó khiến Hồ Vân có vẻ kinh
hãi:
- Ê, Bích! Bà làm cái gì vậy? Coi chừng tôi nhát ma lắm à nghe. Tôi bỏ chạy thì đứng có trách à.
Tôi chợt phá lên cười và không thể nào ngăn lại được.
Khi tôi ngưng tiếng cười thì chỉ còn lại mình tôi trong nghĩa trang vắng vẻ. Tôi lau nước mắt đứng dậy ra về với ý nghĩ một phần đời tôi đã được chôn theo với ba tôi. Bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ sống với một con người khác.” (Tạp Chí Thời Tập, 1975)
- Ê, Bích! Bà làm cái gì vậy? Coi chừng tôi nhát ma lắm à nghe. Tôi bỏ chạy thì đứng có trách à.
Tôi chợt phá lên cười và không thể nào ngăn lại được.
Khi tôi ngưng tiếng cười thì chỉ còn lại mình tôi trong nghĩa trang vắng vẻ. Tôi lau nước mắt đứng dậy ra về với ý nghĩ một phần đời tôi đã được chôn theo với ba tôi. Bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ sống với một con người khác.” (Tạp Chí Thời Tập, 1975)
Ở
đây Bích đã biến thành Ma trong mắt người khác. Bích đã trở nên giống Mẹ. Đó là
một quá trình đẩy tới tận cùng ý niệm về Mẹ, từ hấp hối (GTNM), đến tự vẫn
(TTMĐ), và trở thành một hồn ma không siêu thoát được, mà lại là một hồn ma còn
sống nữa (CCĐKT). Những người con đã trở thành chính di sản mà Mẹ muốn trao cho
họ.
Phần
Kết: Giải Pháp nào cho Gia Tài và Bóng Ma của Mẹ
Tôi
quay trở lại với đoạn kết ly kỳ của TTMĐ của Viên Linh.
Sau
khi Học và Sĩ bỏ đi vì những lý do khác nhau, hai chị em Liên và Hiệp thuê người
xuống thung lũng Suối Cá Thần vào buổi tối để cải táng mẹ. Nhưng khi nắp áo
quan tình cờ bật ra dưới huyệt, họ phát giác trong đó không có thi thể mẹ mà chỉ
là những đồ đồng quý giá mà khi còn sống bà Thịnh Phước cất kỹ trên rầm thượng.
Khi tất cả trở về nhà, hoang mang trước cái chết mất xác (Viên Linh 85) thì bà
Thịnh Phước xuất hiện. Bà đã dựng kịch cái chết của chính mình để kêu gọi các
con trở về. Trong suốt thời gian lánh mặt ở trên rầm thượng bà đã nghe những
tranh cãi của những người con, và đã thất vọng trước cách ứng xử của họ đối với
mẹ cũng như đối với nhau. Hiệp đã bỏ đi ngay khi biết mẹ mình còn sống. Anh
nói, “Chắc chắn không bao giờ tôi còn về đây nữa, dù có nhận được tin má từ trần”
(Viên Linh 87).
Tối
hôm đó bà Thịnh Phước thắt cổ tự tử.
Tại
sao bà Thịnh Phước thất vọng về những người con trai đến nỗi phải chọn cái chết
tự tử? Với mô hình gia đình được sử dụng như một biểu tượng của đất nước cùng
những vấn đề di sản, thừa kế, thì những chọn lựa, những thái độ, và cái chết tự
chọn ở cuối truyện có thực sự là một lựa chọn tự do, hay vì không còn cách nào
khác? Và về những dự cảm của nhà văn trong vai trò người bắt mạch xã hội, linh
cảm về vận mệnh đất nước, thì cái chết này có sẽ báo hiệu trước cho tương lai
miền Nam VN sau này hay không?
Người
Mẹ ở cuối truyên GTNM cuối cùng không chết. Tim hãy còn đập, điều hòa, không có
gì đáng ngại, những người con đã chẩn đoán như thế trong bóng tối không ai nhìn
thấy mặt nhau.
Bà
Thịnh Phước của TTMĐ thì đã chết hai lần. Nhưng cái chết của bà là một cái chết
không thực thể, một cái chết mất xác. Một cái chết đầy nghi vấn, cho dù cuối
truyện đã có một ngôi mộ mới xây trên đỉnh đồi Lương Sơn. Với tư cách người đọc,
tôi không nhìn thấy xác chết của bà. Những người con cũng không ai nhìn thấy
thi thể của bà. Khi bà chết treo cổ, người gia nhân phát hiện và tẩm liệm nhưng
Liên hoàn toàn không tham dự và cũng không chứng kiến. Cô ngồi ở phòng ngoài,
hút thuốc như đang thắp hương. Nếu cái chết của một người Mẹ chỉ được thực chứng
khi có sự hiện diện của những người con, thì trong TTMĐ cái chết này đã không xảy
ra. Hoặc nó xảy ra ở một “vùng lạ” khác. Với hai người con đã bỏ đi từ trước
khi bà Thịnh Phước xuất hiện (Học và Sĩ), cái chết treo cổ của bà là một cái chết
khác, một cái chết nằm ngoài đời sống thực của họ. Với Hiệp, anh đã từ khước mọi
hiểu biết về mẹ từ giây phút rời nhà, mẹ của anh sống hay chết không còn là điều
bận tâm nữa. Trước đó Hiệp đã nói với Học, “nếu tôi quên được tôi là thằng Hiệp,
thằng Nguyễn Văn Hiệp của cái gia đình này, tôi đã không vể đây” (Viên Linh
45). Như vậy khi Hiệp bỏ đi cuối truyện, dứt khoát, chúng ta hiểu là cuối cùng
anh đã có thể quên được chính mình là Nguyễn Văn Hiệp, anh đã thực sự đoạn tuyệt
với quá khứ, có nghĩa là hoàn toàn tự do và anh đã kết thúc quá trình tự xa lạ
hóa, để sống trong một căn cước gần nhất với chính anh: “Nó sẽ vô cùng thảnh
thơi sống đời mình, không ràng buộc chút chi nữa hết” (Viên Linh 94). Tôi cho rằng
đây là giải pháp mà Viên Linh muốn dành cho thế hệ của ông, những người trẻ tuổi
trong thập niên 1960, để tự do dấn thân trên con đường lý tưởng. Nhưng trên thực
tế, vào thời điểm hôm nay, dường như thế hệ này vẫn mang nặng hệ lụy của những
di sản đã nói ở trên. Họ không thoát ra khỏi ám ảnh của bóng ma dù họ đã rời khỏi
ngôi nhà của mẹ, cách này hay cách khác, trên quê hương, hay trong tâm tưởng.
Như
một biểu tượng, ngôi nhà của Mẹ đã không còn nguyên vẹn khi có kẻ lạ đột nhập
và đánh cắp quan tài của mẹ (TTMĐ). Và khi người con bỏ đi thì quan hệ mẹ con
cũng thay đổi. Quan hệ này có thể nhìn như một di sản bị lạ hóa, đi qua nhiều
giai đoạn từ khi con còn thơ dại cho đến khi con trưởng thành. Người mẹ chứng
kiến sự thay đổi của những đứa con và cùng lúc tự thay đổi, hay bị thay đổi
trong cách con cái nhìn lại mình. Liên nói với Hiệp, “Chú hay tôi, anh Học và
anh Sĩ, mỗi người đều lớn lên bằng một cách riêng. Đó là điều làm mẹ đau lòng.
Đau lòng một cách chính đáng. Và đó cũng là điều làm chúng ta cực nhọc. Cực nhọc
một cách vô lý” (Viên Linh 31). Mối liên hệ mẹ-con đã biến dạng, đã hư hao, trước
khi cái chết đến. Với Liên, mọi thứ phức tạp hơn, vì quan hệ giữa cô và bà Thịnh
Phước là quan hệ con hoang-mẹ ghẻ. Khi người gia nhân tẩm liệm trong phòng,
Liên hình dung “bà Thịnh Phước với cái miệng mở, thâm đen, cái lưỡi dài trắng rộp,
và một sợi dây thừng tròng khít qua cổ, treo như một trái chuối chín nẫu bị dơi
ăn nham nhở.” Nhưng đó là một hình ảnh của Ma hơn là Mẹ. Vì mọi thứ liên quan đến
cái chết: như xác mẹ, tẩm liệm mẹ, đặt mẹ vào áo quan và đóng nắp quan tài lại,
đã xảy ra ở phía sau cánh cửa gỗ gụ với quả nắm bằng đồng đặc. Một sự kín bưng!
Cái chết của bà TP là một cái chết khuất mặt vì vậy nó luôn ám ảnh. Nó cũng như
cái chết còn mang nhiều bí ẩn của miền Nam Việt Nam vẫn theo ám ảnh chúng ta đến
ngày hôm nay. Cho đến bây giờ, sau hơn 50 năm, việc đọc lại TTMĐ vẫn giữ nguyên
tính phi lý, đa nghĩa, với tất cả mọi diễn dịch khả thi, như cách nhìn vào cuộc
chiến tại miền Nam và kết thúc của nó.
Cuộc
đối thoại giữa Liên và bà Thịnh Phước buổi tối trước khi bà tự vẫn đã đẩy câu
chuyện lên một tầng khác mà mọi suy đoán hay liên tưởng đều không dễ dàng hay
đơn giản: “Ai cũng nghĩ rằng mẹ đã chết rồi. Nay mẹ còn sống nên mẹ đã làm hỏng
hết. Mọi thứ trở thành lỗi thời và thừa ra. Mẹ ạ, có ai nhìn thấy cái chết của
mình đâu. Mẹ đã nhìn thấy mình chết dưới mặt các con nên mẹ đã là người khác rồi.
Mẹ không còn như trước nữa” (Viên Linh 92). Trong quan hệ với Liên, bà Thịnh
Phước rõ ràng đã khác trước. Trước khi “lẳng lặng bỏ xứ lên đường,” bà đã trao
lại cho Liên món quà của Vịnh- thầy giáo và người yêu đầu tiên của cô: một cái
hộp sơn mài khóa kín và không có chìa. Đó là hành động giảng hòa giữa hai mẹ
con với lời xin lỗi về ngày xưa bà đã ngăn cấm cuộc tình duyên giữa Liên và Vịnh.
Liên đã trở thành “đứa con yêu dấu”, đứa con ở lại đến phút cuối cùng, đứa con
duy nhất làm theo ý muốn của Mẹ, theo sát tinh thần của bản di chúc. Giới tính
nữ đã trở thành kẻ thừa kế chính thức. Đứa con ghẻ đã trở thành yêu dấu hơn con
thật. Liên, cuối truyện, đã lên đường với hai “tín vật thân yêu”: cái hộp của
người yêu và bản di chúc của mẹ. Chúng ta hiểu rằng cuộc đời cô sẽ thay đổi,
tương lai có lẽ sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng vẫn còn một ẩn số rất lớn về chiếc hộp và
điều nó chứa đựng. Cũng có thể đó chỉ là một chiếc hộp không? Điều này không ai
biết, vì chiếc hộp không có khóa. Truyện Cuộc Chơi Đã Kết Thúc chấm dứt ở một
nghĩa trang vào cuối năm, nhân vật Bích hiểu rằng bắt đầu từ ngày mai cô sẽ là
một con người khác. Đó là ẩn dụ cho một chấm dứt, một chôn cất thực thể, và một
tái sinh tinh thần nơi những người đang sống. Giải đáp, hay chìa khóa, thuộc về
những thế hệ tương lai.
Cũng
có thể nghĩ rằng toàn bộ TTMĐ là câu chuyện hồn ma của Mẹ. Ngay từ đầu truyện
bà Thịnh Phước là một nhân vật đã chết, bà đã là một người chết với tất cả những
nhân vật khác. Và sự xuất hiện của bà ở Chương V, kết quả của một sự giả chết,
chính là sự xuất hiện của Hồn Ma: sống ngoài thời gian của mình, chỉ như một
oan hồn, hay như một điều quái gở (94). Nhưng đã là bóng ma thì không thể khuất
phục định mệnh. Bóng ma phải trở về để phủ nhận cái chết đã xảy ra. Bóng ma sẽ
không yên nghỉ nếu bản di chúc chưa được đọc, nếu gia tài bị thất lạc, nếu căn
phần không người thừa tự.
Viên
Linh đã viết, “Câu hỏi vẫn còn nguyên cho thời thế và quê hương của Liên, nhân
vật chính trong truyện này, dù đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, và mẹ Liên nếu
chưa treo cổ, có thể sẽ vẫn treo cổ lại” (Viên Linh, Tác Phẩm Đầu Tay). Bóng ma
của Mẹ vẫn còn đó giữa quê hương Tây Phố của Viên Linh ngày hôm nay: dù những
người con Học-Sĩ-Liên-Hiệp bỏ đi, thì sẽ nẩy ra những Học-Sĩ-Liên-Hiệp khác để
gây ra những cái chết khác cho Mẹ. Bóng ma của Mẹ vẫn tồn tại ở đây, bốn mươi
năm sau khi một đất nước bị bức tử. Nếu chấp nhận rằng tinh thần hay linh hồn của
một đất nước là nền văn học của nó thì rõ ràng tuy miền Nam đã chết nhưng linh
hồn của miền Nam vẫn sống. Linh hồn đó đã trải qua cuộc phần thư, chết đi sống
lại, và cương quyết từ chối bị vùi dập. Nhân vật của DNM đã nói ở cuối truyện,
“Những di sản nói cho cùng không phải của riêng ai. Nhưng nó thuộc những ai giữ
gìn và bảo vệ nó. Nó kế tiếp lưu truyền…” Hồn ma Mẹ và di sản của Mẹ là một dự
cảm rất sớm của những người viết miền Nam giai đoạn 54-75 về sự tồn tại của một
nền văn học chết rất trẻ, và giữ trong nó tất cả chất tươi mới, đột phá, sáng tạo,
của một thế hệ viết trong tự do và viết trong ý thức rạch ròi về trách nhiệm xã
hội của người viết. Hồn ma ấy đang nằm trong mỗi người chúng ta đang có mặt nơi
đây, trong buổi hội thảo này- một hồn ma của một cái chết uổng, rất dai dẳng,
và quyết liệt. Nếu chúng ta đã viết cho dòng VHMN, nếu chúng ta đã đọc những
tác phẩm của VHMN, nếu chúng ta đã từng là nhân chứng hay nhân vật sống cho những
tác phẩm của VHMN, thì chúng ta là người đã tạo ra những hồn ma đó, và chúng ta
chịu trách nhiệm phải cư xử thế nào cho phải. Gìn giữ gia tài của quá khứ là
làm phong phú tinh thần nhân bản của hiện tại và của tương lai.Đó là công việc
của người làm văn học để lưu truyền những di sản tinh thần cho những thế hệ tiếp
theo. Vả để nhắc nhở rằng hồn ma của Mẹ là gia tài đích thực của các con.
Tài
Liệu Tham Khảo:
Dương
Nghiễm Mậu. Gia Tài Người Mẹ. http://www.vietnamvanhien.net/giatainguoime.pdf
Minh
Quân. “Ăn Chịu Thử Một Lần.” http://vietmessenger.com/books/?title=anchiuthumotlan
Nhã
Ca. Đêm Nghe Tiếng Đại Bác. Việt Nam Thư Quán:
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmnnnmnqn31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmnnnmnqn31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=
Thụy
Khuê. “Dương Nghiễm Mậu- Con Người Nội Soi trong Bạo Lực Chiến Tranh và Thân Phận
Nhược Tiểu.” http://thuykhue.free.fr/mucluc/duongnghiemmau.html
Trùng
Dương. “Cuộc Chơi Đã Kết Thúc.” (tựa cũ “Người Con Gái Tuổi Mèo).” Thời
Tập Mùa Xuân, 1975.
Viên
Linh. Thị Trấn Miền Đông. San Jose: Thế Giới, 1991.
----------------------------
Xem toàn bộ
No comments:
Post a Comment