Hung Phan - Triết Học Đường Phố
Jan 04, 2015
Chỉ là tàn dư của lịch sử
Học Viện Khổng Tử được khai trương ngay trong trường
Đại Học Hà Nội là chuyện đã rồi. Nó được sử dụng làm gì (ngoài dạy ngôn ngữ)
thì ai cũng biết, tiếng xấu đã đồn khắp từ những trường ĐH McMaster, ĐH
Waterloo đến cả ĐH Chicago. Ngoài cái tên Học Viện Khổng Tử gợi nhớ đến bộ quy
tắc sống của một người dân điển hình trong chế độ Phong kiến gồm “tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ” vốn không còn hợp thời bởi có khả năng gợi mở,
kích động tính hiếu chiến trong một thế giới đề cao hoà bình, tự do hiện tại.
Cái tên Học Viện Khổng Tử không mang nhiều mục đích hơn là giúp phân biệt tổ chức
này giữa hàng trăm triệu cái tên khác loài người có thể nghĩ ra.
Những gì Khổng Tử đã làm và đúc kết được sinh ra
trong thời loạn lạc, cùng cố gắng biểu dương tư tưởng của ông trong hơn nửa cuộc
đời đi thuyết phục các đế vương sử dụng nó làm phương tiện cai trị mang lại lợi
ích nhiều nhất cho các đế vương. Thời của các đế vương đã qua và thế giới hướng
đến mô hình quản lý quyền lực phân bổ đồng đều – tam quyền phân lập, giá trị nó
mang lại vì thế, chỉ giới hạn trong thời kỳ Phong kiến quân chủ độc quyền.
Hiện nay dù Khổng giáo là chủ đề để nghiên cứu học
thuật, không nhà nước nào đem đi áp dụng vào xã hội hiện tại. Khổng Tử có gì và
các sản phẩm của ông giờ là lịch sử. Chuyện chỉ trích Học Viện Khổng Tử ở Việt
Nam phần nhiều chuyển hướng thành chỉ trích Khổng Tử và Khổng giáo không làm mọi
việc tốt đẹp hơn, vì thế không làm giới hạn hoặc giảm thiểu nỗi lo Trung Quốc
mưu đồ thống trị Việt Nam thành hiện thực nếu họ thực sự muốn sử dụng Khổng
giáo như một công cụ.
Chiêu bài của nước lớn
Học Viện Khổng Tử mọc lên ngay tại trường đại học
mang tên thủ đô và được ông Du Chính Thanh cắt băng khánh thành trong một chuyến
công tác chóng vánh. Tại sao là Du Chính Thanh và điều đó có ý nghĩa gì thì cần
xem xét vai trò của người cắt băng ở nước sở tại. Vai trò cuả nhân vật này có
thể nói lên khá nhiều điều dù vẫn chỉ giới hạn ở sự hoài nghi:
Trong quan hệ ngoại giao, mỗi cá nhân đại diện và
chức vụ cá nhân đó đang nắm giữ đều có một hàm ý đi kèm giúp làm rõ hay nhấn mạnh
mục đích hành động mà cá đó thực hiện trong quan hệ giữa các quốc gia. Khác với
Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và là đảng phái duy nhất được công
nhận, Trung Quốc là quốc gia có “bề ngoài” đa đảng – thông qua Hội nghị Hiệp
thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính Hiệp), Đảng Cộng Sản Trung Quốc
công nhận và lãnh đạo tất cả các đảng phái còn lại theo một mô mình có thể hiểu
là “đảng trên đảng”.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc vì thế có quyền lực hơn với
các đảng phái còn lại và xuất phát điểm của quyền lực mang ít nhiều tính chất
áp đặt. Ông Du Chính Thanh với vai trò chủ tịch Chính Hiệp xuất hiện tại Việt
Nam để mở cửa Học Viện Khổng Tử – Cơ quan được thế giới coi như là nơi thể hiện
tinh thần của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vì vậy dấy lên hoài nghi cho rằng
Trung Quốc đang tìm kiếm một sự áp đặt mới lên Việt Nam.
Đây chính là những gì Trung Quốc đã làm hàng nghìn
năm trước và dù gánh xiềng xích đã bị người Việt đập tan năm 938, mục tiêu
chính trị của người bạn phương Bắc chưa bao giờ có dấu hiệu từ bỏ. Dù ngoại
giao hai nước chưa có xuất hiện căng thẳng không thể hoà giải, Trung Quốc chưa
bao giờ thống nhất những gì họ nói và những gì họ làm bởi họ xử sự theo kiểu miệng
nói hoà bình, tay cầm súng. Đến lúc nào biết Trung Quốc thật sự muốn gì vẫn chỉ
là những câu hỏi. Theo lẽ thường, khi những câu hỏi mọc lên xung quanh nỗi
sợ hãi, nỗi sợ hãi lập tức được nhân lên nhiều lần – Trung Quốc dường như đang
thực hiện chiến lược xâm lược mềm Việt Nam từ bên trong hơn là sử dụng vũ lực.
Những tổ chức đều sống bởi con người nên mấu chốt sự
tồn tại Học Viện Khổng Tử sẽ vô nghĩa nếu như không có những con người làm nên
nó và những người chịu ảnh hưởng nó hướng đến. Người Việt có lẽ đã chịu thừa ảnh
hưởng của Khổng giáo để phải cần thêm một tổ chức khuếch trương những điều đã
có sẵn trong tư tưởng như bất bình đẳng nam nữ hay chữ “trinh” đứng ngang hàng
nhân phẩm. Cổ vũ những điều đó cứ như bơm thêm không khí vào không khí vậy.
Thời điểm Học Viện Khổng Tử hoạt động đồng
nghĩa sẽ có nhiều người Trung Quốc đến Việt Nam làm việc. Tất cả chúng ta đều
không biết họ nuôi ý định gì trong đầu ngoài việc biết họ có một nền tảng văn
hoá chung, nếp nghĩ của giới lãnh đạo và họ vì vậy sẽ có nhiều điểm trùng khớp.
Dưới góc độ âm mưu mà nói sẽ chẳng có vỏ bọc nào hoàn hảo hơn một cơ quan văn
hoá để làm nhiệm vụ tình báo vì điều kiện nghề tình báo là hoà nhập vào văn hoá
của mục tiêu. Mặc nhiên, khi đã là người Trung Quốc được cử đến, mọi quyết định
lựa chọn đều sẽ đưa về lợi ích quốc gia.
Không phải ngẫu nhiên mà Cơ quan tình báo Canada
(CSIS) thực hiện các cuộc điều tra phản gián nhằm vào Học Viện Khổng Tử, nếu họ
nghi ngờ ta cũng phải có tâm lý đề phòng. Nhưng điều đó không đáng sợ bởi tất cả
các cơ quan giao lưu văn hoá dù từ quốc gia nào đều sẽ quan tâm đến lợi ích quốc
gia trước nhất, dù đó là Le’space của Pháp, Viện Geothe của Đức hay Japan
Foundation của Nhật Bản. Tất cả đều đã được chào đón bởi người Việt, không lý
do gì chúng ta bỏ mặc một cơ hội nếu nó mang lại hiểu biết lẫn nhau giữa hai
dân tộc, tình bạn và tri thức. Vậy mà chúng ta chỉ không chào đón Học Viện Khổng
Tử. Hoặc có lẽ chúng ta không chào đón những gì Trung Quốc tìm kiếm?
Họ đã xâm lăng nơi khác
Người Trung Quốc muôn đời vẫn sẽ là người Trung Quốc,
họ sẽ luôn ở đó và toan tính những điều khó đoán biết; nhưng người Việt bây giờ
và người Việt mai sau nỗi lo lắng mang tên Trung Quốc có thể sẽ thể hiện rất
khác. Khi đã trải qua một cuộc chiến tranh biên giới 1989 và mang trong mình một
mảnh đạn của kẻ thù, người ta sẽ không bao giờ quên được cảm giác đau nhói khi
nhắc về kẻ thù. Một số sẽ thù ghét suốt phần đời còn lại và không tha thứ – điều
này không hề tốt nhưng ít nhất là một lý do hợp lý để liên kết bản thân con người
với nỗi đau dân tộc.
Những người trẻ lại thiếu đi chính sự thấu cảm ấy,
niềm tự hào dân tộc là một thứ vô hình thiêng liêng nhưng nó đang được dùng để
ghét, người ta ghét chỉ vì ghét. Không hề có một lý lẽ nào biện hộ nổi việc xuống
đường đập phá hàng trăm doanh nghiệp chỉ vì tên nhìn “giống như là Trung Quốc”
khi dàn khoản HD-981 xâm phạm chủ quyền. Bộ phận rất lớn chúng ta quá thiếu khả
năng suy xét và hành động còn cảm tính. Không ai muốn thờ ơ nhưng đập phá hay
thù ghét là vị kỷ, chỉ biết thoả mãn cảm xúc riêng, nó thể hiện sự bất lực
không có được một suy nghĩ thông tuệ để giải quyết vấn đề. Mọi vấn đề, chúng ta
để nhà nước giải quyết bằng cái đầu lạnh của họ còn chúng ta hành động bằng cái
đầu nóng. Những gì chúng ta có thật là sự đoàn kết lỏng lẻo.
Trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, chúng ta đang
trở thành những người “nhập siêu” và họ quả thực đang “xuất siêu” vào Việt Nam
rất nhiều (nhưng không phải tất cả) những thứ xấu xí. Chúng ta đề phòng thế
nào? Nếu ở Mỹ họ có tư tưởng tự do ngôn luận khiến thời điểm Học Viện Khổng Tử
cấm nói về Tây Tạng họ tẩy chay và đóng cửa Học Viện Khổng Tử thì ở Việt Nam
chúng ta có gì ngoài sự thù ghét sinh ra từ cảm xúc?
Những điều định nghĩa người Việt giờ đây cần phải
kèm thêm yếu tố nước ngoài: Một người Việt sẽ đi xe máy HONDA, thích uống nước
ngọt Coca-Cola, ghét Trung Quốc nhưng sẽ chọn đồ Trung Quốc giá rẻ nếu có nhu cầu
mua sắm. Ở thời hiện đại mà chúng ta nghèo khổ vì quá thiếu đặc sản của riêng
mình. Những gía trị người Việt sản sinh ra bằng chất xám rất thấp – ngay trong
khối ASEAN thôi người ta chỉ ra Việt Nam duy nhất hơn được Campuchia; trong
cùng khoảng thời gian chúng ta chỉ tạo ra bằng 50% giá trị những gì Philippines
(xếp trên một bậc) làm được. Thế nhưng chúng ta chi trả để mua sắm lại đứng
hàng đầu khu vực. Khi việc tiêu thụ nhiều và kiến tạo thấp đã thành một thứ
thói quen, những gì của người Việt lựa chọn sẽ thật mong manh và chẳng bền vững.
Những ảnh hưởng đó như thế nào chúng ta thấy rõ ngoài xã hội qua những vụ tai nạn,
sập hầm, lở đường bất ngờ và yếu tố Trung Quốc cứ như một bóng ma.
Họ thậm chí đã thuê một phần rất lớn trong gần
200,000 héc-ta rừng đầu nguồn ở Việt Nam (10 tỉnh quản lý số diện tích rừng đều
là tỉnh biên giới) để sử dụng thời hạn 50 năm. Phần độc hại của văn hoá Trung
Quốc đã xâm lăng ngay vào chính cách chúng ta cư xử với đồng bào mình mà chúng
ta mặc nhiên thừa nhận chúng tồn tại, chỉ tìm cách né đi chứ không tìm cách loại
trừ: Kinh doanh gian trá, đầu độc thực phẩm, sùng bái cá nhân…
Tôi – người Viết bài này có lúc đã tâm niệm rằng
hình như ngoài đất là của Việt Nam, những gì có trên mặt đất đều có dấu ấn
Trung Quốc. Một cách khá ngọt ngào mà nói, về cơ bản, chúng ta đã bị xâm
lăng. Chúng ta đang thật sự gặp nguy hiểm!
Hung Phan
-----------------------------
Viện Khổng Tử ở
Việt Nam
CAM LY tổng hợp 06/01/2015
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-12-30
2014-12-30
29-12-2014
Trần Quang Đức
Posted on Dec 29, 2014
Quốc Phương BBC Việt ngữ 5-12-2014
tác giả: Lưu Hiểu
Ba
tác giả: Lưu Hiểu
Ba
No comments:
Post a Comment