Thursday 1 January 2015

Chán học – bệnh của người Việt? (Yoshitaka Tanaka)





Yoshitaka Tanaka
Posted on Jan 2, 2015

Dưới đây là một bài viết về giáo viên Việt Nam trong cuốn sách “cải cách giáo dục Việt Nam” của một học giả người Nhật đã từng sống ở Bắc Giang 3 năm từ 2004 đến 2007. 


1. Lý do vì sao nghề giáo ở Việt nam lại được tôn kính.

Có 2 lý do để ông khẳng định nghề giáo ở Việt Nam được mọi người kính trọng. Lý do thứ nhất ông cho rằng, từ xa xưa người Việt Nam bị ảnh hưởng của nho giáo từ trung quốc cụ thể là tư tưởng của Khổng Tử và Lão Tử. Lý do thứ 2 đó là do tỷ lệ học lên đại học ở Việt Nam những năm 90 là cực thấp ( 1995: 2%) vì thế, dưới con mắt một người dân thường, Người giáo viên là một nhà tri thức, một con người ưu tú xuất sắc. Những gì giáo viên nói là chuẩn mực, là chính xác.Tuy nhiên nó dẫn đến hệ luỵ đó là khiến giáo viên nhầm tưởng rằng mình thực sự giỏi giang, tự đề cao mình, và quên mất đi việc nỗ lực để trở thành người thầy tốt hơn.

2. Người thầy Việt Nam sử dụng QUYỀN LỰC, tiêu diệt hứng thú học tập của học sinh.

Ông chỉ ra sự sai khác giữa QUYỀN UY NGHIỆP VỤ và QUYỀN LỰC CÁ NHÂN. Người giáo viên Việt Nam nhầm tưởng QUYỀN UY mà họ sẵn có chính là QUYỀN LỰC CỦA CÁ NHÂN mình. QUYỀN UY của người thầy được tiếp nhận mà ông nhắc đến chính là “sự cuốn hút bởi tính cách của người thầy khiến tự trong thâm tâm mình các em học sinh ngoan ngoãn lắng nghe.” Tuy nhiên, người giáo viên Việt Nam sử dụng QUYỀN LỰC CÁ NHÂN để bắt ép học sinh phải ngoan ngoãn nghe theo. Trong bài có một đoạn văn ông viết như sau: “Những tiếng động uy hiếp “rầm” phát ra từ chiếc thước kẻ được đập xuống bàn hay bảng đen, hay những lời de dọa như “không nghe lời thì tao sẽ cho mày điểm xấu, hạnh kiểm yếu…” Vô tình khiến học sinh bị dồn vào hoàn cảnh phải nghe theo người thầy mà không nói được gì. Bằng chứng là việc chúng ta bắt gặp bóng dáng của rất nhiều học sinh khi đến giờ ra chơi, đồng loạt đổ xô ra sân trường, hưng phấn đùa vui, hét ầm ĩ cư như là giải tán được sự áp lực vậy. Đó chính là khoảnh khắc khiến chúng ta cảm nhận được rằng,những đứa trẻ đã phải nín nhịn những cảm xúc,chúng phải tham gia giờ học trong hoàn cảnh bị áp bức dồn nén như thế nào.”

Đọc đến đây làm mình nhớ lại thời còn là học sinh. Mình sợ trường học, sợ học bài, sợ kiểm tra (miệng, 15 phút, 1 tiết, học kỳ..),và không biết mình học để làm gì. Hứng thú học tập của mình hoàn toàn bị tiêu diệt bởi những ngày tháng sợ hãi. Liệu những người thầy của chúng ta đang thực sự mong muốn điều tốt cho học sinh? Hay vô hình chung, họ đang sử dụng quyền lực của mình để gây ra căn bệnh di căn “chán học”, căn bệnh này âm ỉ cho đến khi trưởng thành và phát tác mạnh mẽ. Người lớn sẽ chẳng có năng lực học tập nữa, con người sẽ chết đi và mang theo căn bệnh đó.

Quyền lực và vị trí mang tính xã hội cao của Nhà Giáo Việt Nam

Nhà giáo là một nghề đáng tôn kính ở Việt Nam. So với các nước phát triển trong đó có Nhật Bản, khi chỗ đứng của nhà giáo đang bị rớt đài thì “Việt Nam” khiến chúng ta phải ghen tị khi đem ra so sánh. Lý do trước tiên có lẽ đó là đạo đức quan(cách nhìn về đạo đức) của người dân Việt Nam. Việt Nam từ xưa đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc,ngay cả dưới thể chế quốc gia hiện tại là Xã Hội Chủ Nghĩa, tư tưởng nho giáo, cụ thể là tư tưởng của Khổng Tử và Lão Tử đã thấm nhuần trong ý thức của mọi người. Kính “nhân nghĩa hiếu trung”, yêu gia đình, trọng “quan hệ thầy trò”, tôn trọng quan hệ trên dưới theo tuổi. Việc ý thức rằng giáo viên là thầy của tất cả mọi người chứ không chỉ là thầy của học sinh được lan rộng toàn xã hội.

Ngoài ra có thể nêu lên đặc tính ưu tú của người thầy.Những năm trở lại đây, tỉ lệ học tiếp lên trung học hay đại học có tăng lên, tuy nhiên từ trước tới nay, tỉ lệ học tiếp lên đó luôn ở tình trạng rất thấp trong một thời gian dài. Ví dụ, Tỷ lệ học sinh học sinh hoàn thành xong giáo dục trung học năm 1999 là khoảng 32%, ở giáo dục đại học chỉ có 2 %. Trong hoàn cảnh như thế, những người thầy tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp cao đẳng, hay tốt nghiệp đại học, sẽ trở thành những người ưu tú xuất sắc có học vấn quá cao so với một người bình thường. Như thế, việc coi người Thầy là nhà trí thức đã ngấm sâu vào trong tiềm thức của mọi người.Đặc biệt, ở những vùng nông thôn hay vùng sâu vùng xa, khuynh hướng này rõ nét hơn, người Thầy tồn tại với tư cách là người hướng dẫn của cả vùng, và nhận được sự kỳ vọng lớn. Tôi thường bị bất ngờ bởi cách viết, cách nói chuyện của các giáo viên Việt Nam. Cách nói chuyện trong giờ học không có từ thừa, và được lựa chọn một cách cẩn thận. Giọng nói rõ ràng, không lưỡng lự, do đó rất dễ nghe. Ngoài ra, những chữ viết trên bảng đẹp như là đánh máy từng chữ một, toàn bộ bảng đen cứ như là một nghệ thuật bởi một loại chữ viết. Việc này được luyện tập khắt khe trong quá trình tập huấn và giảng dạy, vì thế đây sẽ là lý do lớn để minh chứng tính ưu tú của giáo viên dưới con mắt của một người bình thường, lý do để được kính trọng.

Có thể nói rằng, trong xã hội mà giáo viên được sự kính trọng từ mọi người ở Việt Nam thì nghề “nhà giáo” được bảo vệ bởi sự tín nhiệm. Từ trước tới này, người thầy luôn được coi là người có nhân cách, người tuyệt vời, người giỏi giang. Việc sinh ra tín ngưỡng, tuyệt đối cho rằng “những gì người đó nói là đúng” chắc chắn không phải là hiếm. Ví dụ như việc, các thầy cô giáo ở nông thôn và khu vực miền núi, họ trở thành trung tâm luôn cố gắng nỗ lực để đưa học sinh đến trường, khai sang tri thức “vệ sinh công cộng” hay việc đóng góp lớn cho sự phát triển mang tính kinh tế, mang tính xã hội của khu vực v.v…

Và những người Thầy như thế là những người luôn cống hiến,họ không làm bẩn sự uy quyền trong nghề nhà giáo, họ mang trách nhiệm lớn để đáp ứng một điều gì đó tới niềm tin cháy bỏng từ mọi người. Tuy nhiên, trong thực tế nó không phải toàn những mặt tốt như vậy. Việc tác dụng phản ngược lại với điều tốt đó có trong sự tín nhiệm của người thầy là sự thực. Và nó trở thành vấn đề giáo dục lớn hiện nay của giáo dục Việt Nam. Chúng ta cùng tìm hiểu tới việc uy quyền mang tính nghề nghiệp của người thầy gây tác dụng phụ như thế nào.

Như tôi đã nói ở phần trước, giờ học ở Việt Nam được diễn ra đơn giản theo như chương trình giảng dạy, đúng tiến độ đã được quy định trong giáo án, theo những gì viết trong sách,bằng phương pháp đã được đưa ra trong sổ giáo án dành cho giáo viên.Ở đây, người thầy không có cơ hội phát huy tính sang tạo, tính độc lập, và hầu như không có quyền xử lý, phán đoán một cách tự chủ theo ý mình. Mối quan tâm của giáo viên chỉ hướng đến việc dạy học nội dung đã được quy định theo trình tự đã được quyết, mà không thể hướng đến việc học sinh quan tâm gì, thích gì,và đã hiểu gì.Đối với học sinh những giờ học như vậy sẽ làm giảm hứng thú tới việc học tập và khó nói rằng nó có sức hút. Nếu như giờ học như vậy diễn ra ở đất nước chúng ta, chắc chắn nó sẽ không còn là giờ học nữa, học sinh chắc chắn sẽ nói chuyện với nhau, sẽ ngủ gật hay đứng dậy đi quanh phá rối. Ngược lại, học sinh Việt Nam luôn hướng lên bảng và nghe giáo viên giảng bài.Chắc chắn trong thâm tâm có nhiều học sinh nghĩ rằng là “ thật là nhàm chán, sao ko mau hết giờ nhỉ…”. Thế nhưng, bề ngoài thì giờ học đã được hình thành. Điều này không liên quan đến việc vô thức hay không vô thức, đây là do người thầy luôn chèn ép học sinh. Những tiếng động uy hiếp “rầm” phát ra từ chiếc thước kẻ được đập xuống bàn hay bảng đen, hay những lời de dọa như “không nghe lời thì tao sẽ cho mày điểm xấu” Vô tình khiến học sinh bị dồn vào hoàn cảnh phải nghe theo người thầy mà không nói được gì. Bằng chứng là việc chúng ta bắt gặp bóng dáng của rất nhiều học sinh khi đến giờ ra chơi, đồng loạt đổ xô ra sân trường, hưng phấn đùa vui, hét ầm ĩ cư như là giải tán được sự áp lực vậy. Đó chính là khoảnh khắc khiến chúng ta cảm nhận được rằng,những đứa trẻ đã phải nín nhịn những cảm xúc,chúng phải tham gia giờ học trong hoàn cảnh bị áp bức dồn nén như thế nào.

Tôi buộc phải nói rằng, các giáo viên như thế này đã lạm dụng uy quyền mang tính nghiệp vụ sẵn có trong nghề nhà giáo. Phần lớn các giáo viên đã nhầm tưởng rằng uy quyền mang tính nghiệp vụ của nghề giáo là quyền lực có sẵn trong cá nhân họ. Tóm lại, họ nhầm tưởng rằng việc tin yêu của mọi người đối với thầy giáo là “Người thầy là nhân vật đáng kính trọng”, “việc thầy giáo nói là đúng” sang thành là “Tôi là nhân vật đáng kính trọng”, “Điều tôi nói là đúng”. Có thể nhận thấy ở đây, đó là sự chuyển dịch từ “uy quyền”mang tính nghiệp vụ sang “quyền lực”mang tính cá nhân. Cần thiết phải giải thích về quyền lực và uy quyền một lần nữa để chúng ta rõ ràng hơn. Bình thường, chúng ta có khuynh hướng phủ định từ “uy quyền” và khi nói đến “người thầy mang uy quyền” thì chúng ta lại nghĩ rằng người thầy có gì đó xấu xa. Tuy nhiên, do từ uy quyền và quyền lực pha trộn vào nhau vì thế chúng ta có cảm giác như vậy. Nếu như phân biệt được rõ ràng ý nghĩa thực sự của 2 từ này thì chúng ta sẽ hiểu được rằng “người thầy mang uy quyền” sẽ không phải là thứ bị phủ định. Theo như OKADA(một nhà giáo dục học Nhật Bản), việc liên quan mang tính quyền uy đối với học trò của thầy giáo tức là, không phải là lời nói hay hành động mang tính ý đồ hay không của người thầy, ma là do bị sự cuốn hút bởi tính cách của người thầy khiến tự trong thâm tâm mình các em học sinh ngoan ngoãn lắng nghe.

Tôi phủ định việc nói rằng “nếu là giáo viên thi bất cứ ai cũng duy trì mối quan hệ mang tính uy quyền với học sinh”. Vì Chủ thể cảm nhận quyền uy mãi nằm ở phía học sinh, chắc chắn nó không phải là thứ do một phía giáo viên tạo ra. Học sinh sẽ đánh giá nhiều khía cạnh như lời nói, hành động, tri thức, nhân cách của người giáo viên, nếu đánh giá người giáo viên đó là tuyệt vời thì tự bản thân học sinh sẽ tiếp nhận uy quyền đó.
...

Chúng ta cùng nhau quay lại câu chuyện nhà giáo Việt Nam. Ở Việt Nam nghề nhà giáo nhận được uy quyền mang tính xã hội cùng với tính ưu tú trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Bởi thế, chỉ cần trở thành giáo viên thì họ được nhìn nhận bằng ánh mắt tôn kính và tin tưởng của mọi người, cho dù năng lực cá nhân không hề có. Trong nhiều tình huống, họ luôn cho rằng những lời của thầy cô giáo là đúng, dần dần họ tiếp nhận điều đó cho dù giáo viên có đưa ra ý kiến sao đi chăng nữa thì họ chẳng có một chút hoài nghi.Tình trạng này nếu cứ tiếp tục kéo dài thì sẽ xảy ra việc người Thầy nhầm tưởng rằng “mình giỏi giang”, kênh kiệu, và không thèm nỗ lực.Kết cục, năng lực của người thầy không những dậm chân tại chỗ mà con rơi vào tình trạng nguy hiểm, ngày tháng cứ dần trôi đi mà họ không tự ngộ nhận ra điều đó. Cảm giác như việc này bị thúc đẩy nhiều hơn bởi tính tuyệt đối tuân thủ giáo trình giảng dạy mà tôi đã nêu ở phần trước. Phía sau những lời phát ngôn của thầy cô như “Tôi dạy đúng theo như giáo trình giảng dạy” thì nó còn bao gồm ý nghĩa là “Tôi tổ chức hoạt động giáo dục đúng như chính phủ ban hành, chẳng có gì là sai. Đối với học sinh, những gì tôi nói trong giờ giảng là những điều chắc chắn chúng phải nhớ. Vì thế tôi phải chỉ đạo khắt khe hơn để cho chúng nhớ”. Nói cách khác, “vì tôi giảng dạy theo giáo trình mà chính phủ uỷ thác, do đó học sinh phải tuân thủ tuyệt đối theo tôi.” Những giờ học của người thầy không hề quan tâm tới sở thích tính tò mò của học sinh mà dạy theo một hướng như thế này chắc chắn không thể lôi kéo được học sinh. Cộng với việc thúc ép bằng quyền lực của mình sẽ khiến các em sẽ dần mất đi hứng thú cho việc học tập và không thể tập chung được nữa. QUYỀN UY mang tính nghiệp vụ của nhà giáo vốn có bị chuyển sang quyền lực bởi sự hiểu nhầm lớn của người giáo viên, nó rơi vào sự vô tuần hoàn, trở thành vấn để nan giải, phức tạp trong chế độ giáo dục Việt Nam.

 Trích “Cải cách giáo dục Việt Nam” - 2008

----------------------

XEM THÊM :

Dũng Mori
Thứ Năm, 01/01/2015

Hôm nay đầu năm mới, chúng ta cùng nhau suy nghĩ lại một chút về hiện trạng giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn thông qua cuốn sách “cải cách giáo dục Việt Nam” dưới ngòi bút của nhà giáo dục học Tanaka người Nhật.

Mấy hôm trước mình có đăng một bài về áp lực trong QUYỀN LỰC của giáo viên gây ra hậu quả là học sinh việt nam mắc phải căn bệnh “chán học” hay “sợ học”. Tuy nhiên đó chỉ là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng xấu đến tình trạng giáo dục chung của nước nhà mà thôi.Còn rất nhiều các nguyên nhân khác nữa.Và ngày hôm nay, chúng ta lại cùng nhau tìm hiểu một nguyên nhân khác đó là về “chế độ giáo dục”, cụ thể là SỨC MẠNH QUYỀN LỰC TUYỆT ĐỐI của THỂ CHẾ TẬP QUYỀN TRUNG ƯƠNG. Trong bài viết này có 2 ý chính như sau:

1. Giới thiệu về mạng lưới của THỂ CHẾ TẬP QUYỀN TRUNG ƯƠNG.
Theo Tanaka, nhờ có sức mạnh đó mà những “chỉ thị được chính quyền trung ương đưa ra chỉ sau một đêm là đến được tất cả các trường học trong cả nước”. Ông “khen đểu” rằng nó giống như là một cỗ máy truyền thông kỳ diệu.

2. Nó chi phối tất cả những cơ quan hành chính và con người phía bên dưới.

- Mối quan hệ chiều dọc.
Ông diễn giải cấu trúc của thể chế, và ảnh hưởng của nó đến trường học một cách đơn giản và dễ hiểu. Ông ví nó như cái mũi tên cắm đầu xuống đất (vì sách nhật viết dọc nên mình tả như vậy) và phần phía trên của mũi tên mang sức mạnh đè nặng các phần phía dưới. trung ương tỉnh thành  quận huyện trường học. Và trong mỗi tổ chức cũng đều có cấu tạo như hình mũi tên, chẳng hạn như trường học, chúng ta có: Hiệu trưởngHiệu phógiáo viên chủ nhiệm bộ môn/ khóagiáo viên bình thường. Không ai có thể cãi lệnh của trung ương, thì trong trường học, không ai có thể phản đối được lệnh của hiệu trưởng. Và đây ông gọi nó là mối quan hệ chiều dọc.

- Mối quan hệ chiều ngang
 Tức là mối quan hệ giữa các tỉnh thành với nhau, các quận huyện với nhau, các trường học với nhau. Trong trường học thì là các giáo viên với nhau. Sức mạnh của mối quan hệ chiều dọc khiến mối quan hệ chiều ngang yếu đi, tức là không hề có sự liên kết với nhau. Cụ thể ông nói như sau:
“Có một người làm việc ở trong một trường nọ cho tôi hay, trường của họ không hề quan hệ giao lưu với các trường bên cạnh, và họ cũng ko hề thăm hỏi nhau. Thi thoảng, các hiệu trưởng và các giáo viên họ gặp nhau lúc nhát trong các buổi nghiên cứu do chính phủ tổ chức mà thôi. Ngoài ra, các nhân viên công chức của của quận họ cũng chưa từng một lần giao lưu với các quận khác, hiện trạng giáo dục của quận bên họ cũng chẳng nắm được gì.” “Trầm trọng nhất xảy ra trong trường học, đó là việc các giáo viên không hề giao lưu với nhau. Việc cơ bản là phải nắm được rằng đồng nghiệp của mình tổ chức giờ học ra sao, gần đây sử dụng giáo trình như thế nào là chuyện đương nhiên, thế nhưng do không có mối quan hệ chiều ngang, do đó việc trao đổi thông tin là hoàn toàn không diễn ra.”

 Ngoài ra áp lực đưa ra các chỉ thị, bắt trường học làm nhiều loại giấy tờ thủ tục không cần thiết đã khiến cho người giáo viên trở nên bận rộn hơn rất nhiều. Nhẽ ra những thời gian đó giáo viên có thể chăm chút làm phong phú hơn nội dung bài giảng của mình thì họ lại phải viết nhưng báo cáo vô bổ không ý nghĩa.

 Vâng, mình đã tóm tắt và vẽ hình cụ thể rồi, bạn nào muốn đọc kỹ hơn thì hãy đọc bài viết bên dưới đây của ông. Mình mong muốn rằng, trong năm mới giáo dục việt nam sẽ có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như: chính quyền trung ương hãy bớt áp lực cho giáo viên, giáo viên giảm bớt áp lực cho học sinh, để trường học trở thành một “khu vui chơi của học vấn” chứ không phải là “thánh địa”nơi mà các em phải chiến đấu với sách vở, chiến đầu với các bài kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết, học kỳ, một cách miễn cưỡng như hiện nay.

 Rất mong các bạn chia sẻ nó thật nhiều, để nhiều người hiểu rõ hơn vấn đề này. Những người có trách nhiệm với giáo dục không chỉ là THỂ CHẾ TẬP QUYỀN TRUNG ƯƠNG mà là tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta, là tôi, là chính bạn.

- Dũng Mori -

-------------

Trong chương I, tôi có lấy các giờ học thực tế được tổ chức tại Việt Nam làm ví dụ và chỉ ra những đặc điểm của nó. Do đó, chắc hẳn bạn đọc đã hình dung được phần nào giáo dục thực tiễn trong giáo dục tiểu học ở Việt Nam. Thế nhưng, Chúng ta phải thảo luận nhiều hơn nữa về việc “tại sao những giờ học thực tiễn lại được tổ chức như thế”. Trong chương này, Tôi sẽ tìm ra vấn đề nằm trong bối cảnh giáo dục thực tiễn đó và phân tích về việc nó ảnh hưởng như thế nào đến trường học và thầy cô. Trong việc phân tích các vấn đề, để cho dễ hiểu tôi chia làm 4 khía cạnh như sau 1. chế độ giáo dục, 2. Lý luận mang tính xã hội học, 3. Lý luận mang tính giáo dục học, 4. Ý thức cá nhân của người thầy. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề không chỉ tồn tại mang tính cá biệt, nó liên kết bám vào nhau một cách phức tạp , Vì thế chúng ta cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng về sự kết nối quan hệ nhân quả của chúng.

- Vấn đề của chế độ giáo dục

1. THỂ CHẾ TẬP QUYỀN TRUNG ƯƠNG của giáo dục. 教育の中央集権体制

Ở Việt Nam tất cả những việc liên quan đến giờ học thực tiễn đều được tổ chức dựa trên quy chế của chính quyền trung ương. Hơn nữa, giáo dục quản lý cũng bị chi phối khắt khe dưới thể chế tập quyền trung ương. Trước tiên, những khoản mục căn bản nhất của chương trình giảng dạy để tổ chức giáo dục thực tiễn đều do chính quyền trung ương quyết định.Trong đó, những điểm lưu ý trong việc chỉ đạo “các môn học, kế hoạch tiến độ giờ dạy, thời gian các tiết học trong một năm, phương pháp giáo dục, nội dung giáo dục, mục đích giáo dục” đều được trình bày rất rõ ràng. Kế đến, sách giáo khoa được biên soạn theo chương trình giảng dạy. Sách giáo khoa chỉ có một loại được ấn định của nhà nước và phát hành bởi chính quyền trung ương, tất cả các trường học trong cả nước có nghĩa vụ phải sử dụng nó. Hơn nữa, Sổ hướng dẫn dành cho giáo viên cùng với lịch trình giảng dạy cũng được quy định rõ ràng, sổ hướng dẫn thì có phương pháp giảng dạy cụ thể, lịch trình giảng dạy thì ghi rõ các bài cần dạy hàng tuần theo từng môn. Và cứ như thế, tất cả các trường học trên toàn Việt Nam đều đồng thanh bước đều, cùng tổ chức các giờ học y chang nhau. Vì thế, cho dù đi bất cứ đâu, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh việc giảng dạy các giờ học giống nhau,bằng phương pháp giống nhau, trong thời gian như nhau trong một ngày không khác nhau.
Điều khiến tôi phải giật mình vì sự “khủng khiếp” của thế chế tập quyền trung ương Việt Nam chính là việc quản lý giáo dục được thực thi không những ở thành phố mà nó còn được thực thi cả ở những nơi được coi là vùng sâu vùng xa trong núi hay các khu vực nông thôn địa phương. Điều này có liên quan sâu sắc tới chế độ hành chính giáo dục đã được chăng trải khắp nơi như những mắt lưới chằng chịt. Tại chính quyền trung ương Việt Nam, có bộ giáo dục và đạo tạo. Ngoài ra các đơn vị hành chính ở các địa phương như tỉnh, quận, huyện, đều có trang bị sở giáo dục và đạo tạo hay phòng giáo dục và đào tạo. Hơn nữa, tất cả các cấp từ trung ương, tỉnh thành, quận, huyện, đều lắp đặt hội đồng nhân dân theo hệ thống mệnh lệnh mang tính chính trị. Mạng lưới hành chính giáo dục này cùng với mạng lưới chính trị cùng nhau hoạt động một cách êm ả, và nó dẫn dắt chỉ đạo của chính quyền trung ương đến khắp toàn quốc. Ví dụ, có một chỉ thị được đưa ra từ bộ giáo dục và đạo tạo trung ương. Những mệnh lệnh, chỉ thị thông thường hay chính thức đều được làm bằng văn bản. Văn bản này được gửi đến sở giáo dục của 64 tỉnh thành trên cả nước thông qua fax, và nó được gửi đến cả phòng giáo dục và dạo tạo các quận huyện. Cuối cùng, mệnh lệnh và chỉ thị đó được gửi đến 14.000 trường học trên toàn quốc.Tất cả công đoạn trên chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng một ngày. Tóm lại, Chỉ thị được chính quyền trung ương đưa ra chỉ sau một đêm là đến được tất cả các trường học trong cả nước. Đây quả là mạng lưới truyền đạt thông tin kỳ diệu.

2. CƠ QUAN QUYỀN LỰC KHỔNG LỒ

Chức năng truyền đạt một cách chính xác, nhanh chóng các chỉ thị cũng như mệnh lệnh đến khắp đất nước của thể chế trung ương tập quyền Việt Nam là một cái gì đó thật là tuyệt diệu. Thế nhưng, nó đồng thời mang ý nghĩa là một thể chế quản lý giáo dục khắt khe, một biểu tượng của thể chế quyền lực. Chính quyền trung ương nắm quyền lực một cách tuyệt đối, những tỉnh thành, những tổ chức nằm dưới cái ô đó đều phải tuân phục các mệnh lệnh được đưa ra. Đồng thời,những tổ chức nằm bên dưới cái ô của quận huyện đó cũng phải tuân thẹo mệnh lệnh của tỉnh thành. Cấu trúc quyền lực của quan hệ trên dưới rất rõ ràng được hình thành theo như : trung ương -> tỉnh thành -> quận -> huyện -> trường học. Phía đuôi của mũi tên thì lại mang quyền lực lớn mạnh hơn nhiều so với phần đầu của mũi tên. Mối quan hệ quyền lực này không chỉ thể hiện ở sự phân cấp cấp bậc mà nó còn được thấy ở bên trong của tổ chức. Ví dụ, Trong trường học có rất nhiều vị trí như: Hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên chủ nhiệm môn, giáo viên chủ nhiệm khóa, giáo viên bình thường. Và giữa những người này cũng được phân cấp bậc một cách rõ ràng. Hiệu trưởng là người có quyền lực lớn mạnh nhất trong trường học. Không ai có thể phản đối ý kiến của hiệu trưởng. Ngoài ra,các giáo viên bình thường, giáo viên chủ nhiệm khóa, chủ nhiệm bộ môn phải tuân theo những gì mà hiệu phó nói.Do đó chúng ta có thể biểu thị mối quan hệ này theo sơ đồ sau: Hiệu trưởng -> Hiệu phó -> giáo viên chủ nhiệm bộ môn/ khóa -> giáo viên bình thường
Chính mối quan hệ hình thành theo cấp bậc và mối quan hệ bên trong tổ chức này chính là nguyên nhân sinh ra vấn đề lớn của giáo dục thực tiễn. Vấn đề thứ nhất đó là mối quan hệ quyền lực theo chiều dọc này nó mang sức mạnh quá lớn, nó khiến cho mối quan hệ về chiều ngang không được để ý đến. Có một người làm việc ở trong một trường nọ cho tôi hay, trường của họ không hề quan hệ giao lưu với các trường bên cạnh, và họ cũng ko hề thăm hỏi nhau. Thi thoảng, các hiệu trưởng và các giáo viên họ gặp nhau lúc nhát trong các buổi nghiên cứu do chính phủ tổ chức mà thôi. Ngoài ra, các nhân viên công chức của của quận họ cũng chưa từng một lần giao lưu với các quận khác, hiện trạng giáo dục của quận bên họ cũng chẳng nắm được gì. Chúng ta có thể thấy được rằng,hoàn toàn không diễn ra các mối quan hệ liên đới giữa các tỉnh thành, các quận,các trường học. Hơn nữa, ngay cả trong nội bộ, ta có thể thấy được sự đoạn tuyệt quan hệ theo chiều ngang. Trầm trọng nhất xảy ra trong trường học, đó là việc các giáo viên không hề giao lưu với nhau. Việc cơ bản là phải nắm được rằng đồng nghiệp của mình tổ chức giờ học ra sao, gần đây sử dụng giáo trình như thế nào là chuyện đương nhiên, thế nhưng do không có mối quan hệ chiều ngang, do đó việc trao đổi thông tin là hoàn toàn không diễn ra.

Vấn đề thứ hai đó là cấu tạo quyền lực theo chiều ngang này mang chức năng như một tổ chức quan liêu do đó nó sinh ra nhiều vấn đề mang tính không hiệu quả. Trong đó phải kể đến việc soạn thảo nhiều loại văn bản thông báo phiền phức. Hiện tại, trường học phải có nghĩa vụ soạn thảo và nộp rất nhiều loại văn bản, chỉ một ví dụ sau ta có thể thấy được điều đó :

- Kế hoạch giáo dục một năm, kế hoạch giáo dục tuần, phiếu điều tra học sinh đăng ký, phiếu điều tra chất lượng học sinh , bản kế hoạch tự nghiên cứu, bản kế hoạch về sự tăng bậc theo tiêu chuẩn toàn quốc(全国標準学校昇格計画書 cái này là giấy gì vậy nhỉ mọi người,) biên bản cải cách giáo dục tiểu học, phiếu điều tra đánh giá giáo viên chung, kế hoạch nâng cao chất lượng giáo dục, bảng điều tra đánh giá trường học...

Nội dung các bản báo cáo trên được sao chép khá nhiều, và có nhiều điểm đáng nghi vấn. Thường thì các loại thông báo đều do hiệu trưởng, hiệu phó đảm nhiệm, tuy nhiên trọng trách đối với các giáo viên bình thường cũng rất lớn, họ phải nộp dữ liệu và thông tin cho cho hiệu trưởng và hiệu phó. Điều đó dẫn đến một kết quả trớ trêu là họ đã bị cướp đi rất nhiều thời gian do việc soạn thảo các văn bản từ cấp trên giáng xuống,trong khi họ còn đang phải bận rộn với giờ học hàng ngày,do đó họ không thể làm tròn được bổn phận đó là chuẩn bị giờ học tốt được.

Hơn nữa, có một loại giấy tờ trở thành gánh nặng lớn đối với giáo viên bình thường. Đó là việc soạn thảo giáo án và nộp nó.Tất cả các giáo viên để nhận được sự cho phép giảng dạy, họ có nghĩa vụ phải soạn thảo giáo án của tất cả giờ học thực thi hàng ngày, nộp trước cho hiệu trưởng và hiệp phó. Trong trường tiểu học, một ngày có 7 tiết học, hàng ngày giáo viên phải soạn 7 giáo án. Điều này trở thành gánh nặng lớn đối với giáo viên. Ý đồ của chính quyền trung ương dường như là nếu nhiều giáo viên dạy học mà không soạn giáo án thì sẽ làm giảm chất lượng giờ học, do đó cần phải làm giáo án trước và xin sự đồng ý của người quản lý, tuy nhiên, quy định này hầu như không có tác dụng gì cho việc nâng cao chất lượng giáo dục mà nó chỉ làm cho giáo viên trở nên bận bịu hơn. Hay, gánh nặng về tinh thần đó là “phải soạn giáo án” đối với các giáo viên luôn ẩn hiện trong tâm chí, chứ không phải là chuẩn bị giảng dạy nữa.Hầu hết các giáo án được nộp đều sao chép từ sổ giáo án dành cho giáo viên, không có một chút dấu tích nào thể hiện rằng các giáo viên đã nghiên cứu về nội dung giờ học cả. Người làm quản lý cũng hiểu rõ được điều này, tuy nhiên do chỉ thị từ chính quyền trung ương đề ra, do đó cho dù giáo án đó mang tính hình thức đi chăng nữa, họ vẫn phải im lặng và chấp nhận điều đó.



Tác giả: Yoshitaka Tanaka – trích trong cuốn “cải cách giáo dục Việt Nam” Trang (67-71)-2008




No comments:

Post a Comment

View My Stats