Có
thể nói, tôi đã đọc Tùy Anh khá nhiều, cũng như
liên lạc quan hệ bài vở với ông trên tập san Viên
Giác phải đến trên hai chục năm. Ấy vậy mà mãi
đến kỳ hè vừa rồi (tháng 8-2014) tôi mới có
dịp gặp Tùy Anh ở chùa Viên Giác Hannover, khi cùng
đi đón nhà thơ Trần Trung Đạo từ Hoa Kỳ sang. Buổi
tối, Thượng Tọa Thích Như Điển sợ Trần Trung
Đạo mệt, nên trước khi về phòng ngủ còn dặn ba
chúng tôi nhớ phải ngủ sớm. Thế mà, mải chè
cháo chuyện trò mãi đến gần sáng, tôi mới chợt
nhớ mình phải về để kịp giờ làm việc. Mở
cổng, tiễn tôi ra xe, Tùy Anh dặn đi dặn lại, lái
xe phải cẩn thận, nếu như buồn ngủ quá thì phải
dừng xe chợp mắt chút ít, ba trăm cây số chứ
chẳng phải chơi đâu. Nghe nói, ông vừa phải mổ
khối u phổi, nhưng ở cái tuổi (gần) bát tuần
mà dáng ông còn nhanh nhẹn lắm. Đặc biệt, giọng
nói của ông rất nhẹ, vang và ấm.
Tùy
Anh tên thật là Nguyễn Hòa, sinh năm 1938 tại Huế.
Ông là kỹ sư, nguyên Trưởng Ty Thủy Lâm Đà Nẵng
và Trưởng Khu Thủy Lâm Vùng Một Chiến Thuật. Sau
30 tháng 4-1975, ông phải đi tù cải tạo. Năm 1980 ra
tù, ông vượt biển và định cư tại CHLB Đức,
hiện là chủ bút tập san Viên Giác Hannover.
Tuy
thơ đã làm nên chân dung thi sĩ Tùy Anh, nhưng mảng
văn xuôi cũng đóng góp quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác của ông. Lão Hũ Chìm viết dưới bút
danh Phù Vân là tập truyện điển hình với bút
pháp hiện thực của ông. Cũng như nhà thơ Thế
Dũng, văn chỉ là hình hài thân xác, thơ mới chính
là tư tưởng hồn cốt của Tùy Anh. Có lẽ, đây
cũng là cái đặc trưng riêng của các nhà thơ lưu
vong. Bởi những biến đổi xã hội, xáo trộn tâm
lý cuộc sống quá lớn, riêng thơ khó chuyển tải
hết nỗi lòng thi nhân. Do vậy, trang văn cũng là nơi
người thi sĩ tìm đến. Và dường như càng lớn
tuổi, thơ của họ đến gần với triết lý thiền
đạo hơn.
Có
thể nói, chính biến cố xã hội (30-4-1975) và sự
chia ly ngăn cách đã đưa Tùy Anh đến với nghiệp
viết lách. Những năm tháng tù đày, bão tố của
biển khơi và cả nửa cuộc đời lưu vong ấy, như
những nhát dao chém ngang hồn người thi sĩ. Với
ông, chỉ có thơ văn mới là liều thuốc xoa dịu đi
những cơn đau và nỗi nhớ đó.
Có
những con thuyền chở Tháng Tư đi
Đọc,
nghiên cứu ta thấy, thơ Tùy Anh mang đậm tính tự
sự. Thông qua thủ pháp nghệ thuật này, thi sĩ đã
dựng lại một cách sống động những biến cố
xã hội, biến cố cuộc đời cũng như cảm xúc tư
tưởng, rồi tan chảy vào những tác phẩm của
mình. Thật vậy! Nếu không phải trải qua những năm
tháng tù đày, thì chắc chắn Tùy Anh không thể
viết được những câu thơ làm cho người đọc cảm
thấy bùi ngùi, xót xa đến như vậy. Với những
nỗi đau, ôm theo mối hận tưởng như không thể dứt
bỏ, ấy vậy lời thơ của ông vẫn thủ thỉ, nhẹ
nhàng thương đời, trách mình, tuyệt nhiên không
thấy bùng lên sự hận thù cay nghiệt ở trong đó:
“Ôm
mối hận nhưng lòng còn son sắt
Thương
quê hương đòi đoạn tháng ngày qua
Thương
đời mình lỡ một thuở ngu ngơ
Nên
lao nhục trong rừng sâu núi thẳm
Cam
đày đọa trong lao tù giam hãm…“ (Về Rừng?)
Thoát
khỏi nhà tù nhỏ, nhưng cánh cửa nhà tù lớn vẫn
khóa chặt cuộc đời thi nhân. Vì vậy, với Tùy
Anh ra khơi vượt biển là con đường duy nhất thoát
khỏi địa ngục ấy. Muôn Trùng Thiên Lý là một
bài thơ, hay là những câu hỏi tu từ xoáy quặn đau
lòng người trước giờ chia ly?
"...Ba
mươi tháng tư, một phương trời bão nổi
Nhân
danh nào làm chồng vợ lìa xa?
Chủ
nghĩa nào làm tình nghĩa phôi pha?
Ai
nhớ ai quên, tiếng hờn vang động..."
Nhìn
lại lịch sử mấy ngàn năm qua, lúc bình yên, hay khi
chém giết tranh giành quyền lực, dẫn đến đổi
thay chế độ, nhưng chưa khi nào người Việt lao ra
biển để đi tìm sự sống trong cái mong manh và tăm
tối như sau biến cố ba mươi tháng tư vừa qua. Bước
chân ra đi là lời vĩnh biệt quê hương hay là lời
vĩnh biệt chính cuộc đời mình của người thi
sĩ? Nếu ai chưa một lần phải bước lên chiếc
thuyền lá tre bồng bềnh, lọt thỏm giữa biển khơi
bốn bề sóng gió, đọc thơ Tùy Anh chắc chắn sẽ
cảm được phần nào đớn đau, tủi nhục trong nỗi
tuyệt vọng của con người:
"...vĩnh
biệt người, vĩnh biệt quê hương
có
nỗi kinh hoàng nào ai hiểu thấu
bởi
lũ ma vương
bởi
phường thủy khấu
những
tiếng cười quái đản
những
nét mặt cuồng dâm
mã
tấu, dao găm
trút
xuống thân người tị nạn!..." (Vẫy Tay Chào
Quê Hương)
Nếu
thơ Tùy Anh là tiếng nấc chung đớn đau, xoáy vào
thân phận người tị nạn, thì những trang văn của
ông đã cụ thể hóa nỗi đắng cay tuyệt vọng hay
những hành động phản kháng mãnh liệt của chính
mình. Trên Cõi Hồng Hoang là một truyện ký như
vậy. Tùy Anh đã đưa hình ảnh cụ thể, sống động
nhất vào trang văn. Tuy ông cho rằng, đây là hành
động như một phản ứng tự nhiên trước nghịch
cảnh đồng loại bị hành hạ, hãm hiếp một cách
dã man. Nhưng lãnh một nhát mã tấu chém ngang bụng,
để lại vết thương không bao giờ thành sẹo ấy,
với tôi, đó hành động can trường, một sự phản
kháng có ý thức rõ ràng của Tùy Anh. Chúng ta đọc
lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ điều
đó:
“…hắn
chợt nhớ lại sự kinh hoàng tột độ của mọi
người trên ghe vượt biên khi hai tàu đánh cá của
Thái Lan bao vây. Những ngày lênh đênh trên mặt biển,
đói khát lả người, nên có muốn chống cự cũng
chẳng còn ai đủ sức. Tụi cướp nhảy qua ghe như
một bầy thú tranh mồi. Cô gái ngồi gần hắn bị
tụi cướp lôi ra, xé gần hết quần áo. Cô gái
thét lên kinh khiếp. Hắn cảm thấy bất nhẫn và
bỗng nhiên một sức mạnh trào dâng, hắn nhảy xổ
ra hất mạnh tên cướp và kéo cô gái trở lại. Đây
chỉ là một hành động hào hiệp, một phản ứng
tự nhiên trước nghịch cảnh man rợ. Hắn đâu có
ý thức trước được một hiểm họa một báng
súng, một nhát mã tấu…”(Trang 212)
Có
một nhà nghiên cứu (ở Paris) trong số báo xuân gần
đây viết: "Phần lớn đề tài trong thơ của
Tùy Anh liên hệ xa gần tới thời cuộc, thành thử
thơ của ông phần thi hứng bị trí tuệ lấn
át…" Có lẽ, nhà nghiên cứu này muốn
nhắc đến thi hứng trời mây sông nước, hay ở
cõi trên xa rời với đời sống, xã hội con người
chăng?
Vâng!
Chính cái thi hứng cõi trên này, đã đẻ ra những
bài thơ, trang văn đều chết non chết yểu cả. Tài
năng thi hứng đến như đại thi hào Nguyễn Du, nếu
ngòi bút của cụ không chọc thẳng vào cái xã hội
thối nát và thân phận con người, thì có lẽ
Truyện Kiều khó sống được đến ngày hôm nay.
Thật
vậy, thơ của Tùy Anh đã đi cùng với những thăng
trầm của đất nước và nỗi đau của con người,
những mảnh đời tha hương biệt xứ. Do vậy, thơ
ông đầy ắp hơi thở cuộc sống, sinh động đi
thẳng vào lòng người.
Những
vết thương không bao giờ thành sẹo
Cũng
như như nhà thơ lưu vong khác, thơ của Tùy Anh đau đáu
một niềm nhớ thương, mong ngày trở về “Mình
ta tháng đợi năm chờ/ Vết nhăn thành sóng trên bờ
trán cao” Và sự chờ đợi ấy, dường như
chỉ là giấc chiêm bao. Dẫu biết vậy và anh cũng
chẳng còn trẻ nữa, nhưng vẫn đưa em về tìm lại
ký ức thuở ban đầu. Đủ Ấm Yêu Thương là một
giấc mơ mang mang hoài niệm như vậy. Nó tuy không
phải là bài thơ thật xuất sắc của Tùy Anh, nhưng
có lời thơ rất nhẹ và đẹp:
“...Em
về biển- biển muôn đời vẫn mặn
Sóng
vỗ hoài phai dấu tích thương xưa
Bên
rừng vắng- rừng ngút ngàn tĩnh lặng
Tiếng
chim hoang hót gọi buổi giao mùa...”
Ba
mươi lăm năm trường, cũng không thể xóa nhòa nỗi
đớn đau thân phận lạc loài, để rồi dường như
có lúc họ phải trốn chạy ra khỏi thực tại, ra
khỏi chính mình. Nếu nhà thơ Luân Hoán đã có lúc
phải chìm mình vào trong những cơn say, thì thi sĩ
Tùy Anh cố xóa đi cội nguồn gốc gác. Nhưng nhà
thơ đã lầm, nỗi đắng cay, uất hận không chỉ
quặn lên cứ mỗi độ tháng tư về, mà nó còn
luôn thường trực trong lòng người và được nhân
lên sau những cơn say ấy.
Thật
vậy! Chẳng có cơn say nào, quốc tịch nào làm làm
vơi đi được nỗi day dứt khắc khoải đó:
"Tưởng
đã phai mờ cội nguồn chủng tộc
Bằng
vào tên họ nửa Á, nửa Âu
Bằng
vào quốc tịch vô căn mất gốc
Quên
hẳn da vàng, mũi tẹt, mắt nâu!
—
Tưởng
rằng đã quên đi đắng cay uất hận
Bằng
nửa cuộc đời lưu lạc tha phương
Bằng
những đêm trường dày vò thân phận
Dở
khóc dở cười đòi đoạn tiếc thương!"
(Tháng Tư Gợi Nhắc Niềm Đau)
Tuy
đến với thơ văn bởi hoàn cảnh sống, hoàn cảnh
tranh đấu và khá muộn, nhưng Tùy Anh viết nhiều,
được cho là một trong những cây bút có nội lực
nhất ở Đức trong suốt mấy chục năm qua. Lời thơ
Tùy Anh sáng, đẹp, giàu nhạc tính. Do vậy, có khá
nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ phổ
nhạc. Thơ lục bát tuy không phải là sở trường của
Tùy Anh, nhưng ông luôn gây bất ngờ cho người đọc.
Buồn Xưa là một bài thơ lục bát như vậy. Để
giữ đúng những nhát cắt của cuộc sống, sự
vỡ vụn tâm trạng, nhà thơ đã dùng thủ pháp ngắt
nhịp, xuống dòng trong câu thơ. Với hình thức này,
gần đây cũng có một số nhà thơ đã sử dụng,
nhưng để đi đến tận cùng của sự mất mát,
đắng cay của những kiếp người, thì quả thật,
không phải ai cũng làm được:
“...Tháng
tư
rã
ngũ tan hàng
nổi
trôi vận nước
tan
hoang phận người
kẻ
đi biền biệt ngàn khơi
người
trong tù tội
một
đời
đắng
cay
buồn
xưa
len
lén về đây
xót
xa nỗi nhớ
phương
này
bơ
vơ...”
Có
lẽ, không nhà văn nhà thơ nào không có một lần
viết về mẹ. Tùy Anh cũng không nằm ngoài cái lẽ
thông thường đó. Khi đọc và nghiên cứu Tùy Anh, ta
thấy, không chỉ một vài lần mà dường như, hình
tượng mẹ và quê hương là mạch chảy xuyên suốt
sự nghiệp sáng tác của ông. Nỗi nhớ thương ấy,
luôn quằn quại trong lòng những người con nơi xứ
lạ. Nhà thơ nhân cách hóa một cách rất cụ thể,
tinh tế hình ảnh tần tảo của mẹ trong cái đắng
cay, nhọc nhằn nơi quê nhà. Tôi nghĩ, đây là sự
liên tưởng về mẹ với quê hương một cách rất
độc đáo:
“Mẹ
mắc võng từ thượng nguồn Bàng Lãng
Đến
ngọn triều cuối cửa bể Thuận An
Lưng
mang nặng nhịp Trường Tiền, Bạch Hổ
Mẹ
gánh thêm núi Ngự, Hương Giang
—
Nước
mắt mẹ đã bao lần nhỏ xuống
Máu
xương con tưởng đã chảy thành sông...” (Lời
Mẹ Ru)
Còn
Chút Gì Để Nhớ là bài thơ khá hay, được
viết trong những ngày đầu Tùy Anh đến mảnh đất
tạm dung, cách nay đã trên ba chục năm. Ấy vậy mà
đọc lại lời tự vấn của nhà thơ trước thảm
trạng đất nước con người, vẫn gieo vào lòng ta
nặng trữu những ưu tư:
“...Thành
phố cũ nay mang tên người chết
Bạn
bè xưa nay còn mãi lao tù
Xin
tự hỏi khi giương buồm vượt thoát
Để
đấu tranh hay để mãi ưu tư?”
Trong
cái lặng câm của những tướng lĩnh ươn hèn trốn
chạy, người thi sĩ uất hận và cố quên đi: “chữ
nghĩa phản chiến của đám kiêu binh, buôn dân, nội
tuyến” và cả “chữ nghĩa tuyên truyền lừa
dối/ của bọn người mệnh danh thiên đàng xã hội”.
Thật vậy, nếu bài thơ Quên Hết Chữ Nghĩa,
Tùy Anh cố quên đi ươn hèn của những kẻ đã góp
phần đưa đất nước vào địa ngục tối tăm, thì
Thắp Giùm Tôi Ngọn Nến như một tiếng kêu
thức tỉnh lương tri của con người trước sự dối
trá lừa lọc của những kẻ “đỉnh cao trí tuệ”.
Với ông, đấu tranh là con đường duy nhất để
giải thoát cho cả dân tộc khổ đau này:
“thắp
giùm tôi ngọn nến
giữa
vùng hỏa ngục Việt Nam
có
muôn ngàn tiếng kêu trầm thống
có
muôn vàn áp bức bất công
thế
giới lương tâm
vẫn
ngồi trong phòng kín
vẫn
câm điếc
vẫn
đui chột mù lòa...” (Thắp Giùm Tôi Ngọn Nến)
Ngoài
tình yêu quê hương, đất nước, Tùy Anh còn viết
khá nhiều thơ tình đôi lứa. Ai đã đọc nó, có
lẽ khó dứt ra được. Bởi, một điều đặc
biệt, thơ tình của ông không hề có sự bi lụy ở
trong đó, mà chỉ thấy phảng phất đâu đó cái
nét mang mang hoài cổ, nhẹ nhàng như đến ru người,
ru tình vậy: “Hương trầm dìu dặt cung đàn/
Võng em rời khỏi trần gian lụy phiền”
Có
thể nói, thơ Tùy Anh là lời tự sự, trăn trở
về đất nước, con người trong những năm tháng nơi
biệt xứ của mình. Nỗi đau của thi sĩ, gắn liền
với số phận của cả một dân tộc. Với ông, vết
thương và nỗi đau ấy lành lại, chỉ khi nào con
đường trở về được mở ra…
Thiền-
triết đã đi vào trong thơ
Hình
như càng lớn tuổi, con người gần gũi, tìm về
với Đạo giáo nhiều hơn. Tuy nhiên, mỗi con người
có con đường đi riêng của mình: “Người thích
đi tìm phật/Trong tiếng kệ, lời kinh/Còn tôi đi
tìm phật/Trong cuộc đời vô minh” Tùy Anh cũng
vậy, cùng với thơ văn ông đi tìm triết lý nhà
phật, triết lý cuộc sống trong chính cuộc đời
u tối này. Do vậy, thơ ông nặng tính triết, tính
thời sự xã hội. Trong bài Khuôn Mặt Dấu Xa
Bay, thi sĩ đã mượn cái qui luật tuần hoàn
của tự nhiên để khẳng định, cơn đại hồng thủy
kia dù có dã man và tàn bạo, nhưng ngày trở về
với đất mẹ của những đứa con bị lưu đày là
điều tất yếu:
“Dòng
sông nào đưa đẩy
Con
nước về đại dương
Cơn
mưa nào hồng thủy
Xua
nước chảy xa nguồn...”
Khi
đi vào cõi mênh mông của thiền triết thi ca, hẳn ta
không khỏi rung động trước những câu thơ tả cảnh
gợi tình, giản đơn nhưng lại đẹp đến nao lòng
của Phạm Công Thiện: “Mưa chiều thứ bảy tôi về
muộn/ Cây khế đồi cao trổ hết bông”. Hay những
câu thơ đầy hình ảnh triết lý với cái tứ mới
lạ của Đỗ Hoàng: “...và cũng bất ngờ/ nhặt từ
bùn/những câu thơ/ thời gian không hóa thạch”. Đọc
Tùy Anh, ta lại thấy được cái an nhiên tự tại
trong nội tâm của thi sĩ, trước nghịch cảnh cuộc
sống:
“...Tâm
an trú giữa hồng trần nghiệt ngã
Mà
hiển vinh là bào ảnh phù du
Nên
ngôn hạnh trong như dòng bát nhã
Thẩm
vào đời nghe vời vợi hương nhu.” (Những Vần Thơ
Tự Tại)
Là
một phật tử và gần hai chục năm làm chủ bút
tập san Viên Giác, nên Đạo giáo đã thấm đẫm
linh hồn Tùy Anh. Rồi Một Ngày Tâm Tĩnh Lặng
là một bài thơ hay, nặng tính triết lý Đạo
Giáo. Nó như một lời lý giải cái khoảng cách hư
vô giữa Đạo và Đời. Và với thi nhân, khoảng
cách ấy tuy là hai thái cực, nhưng sẽ giao nhau ở
tâm điểm trong cái vòng quay vũ trụ. Và đó chính
là hoa và nụ cười trong cái tĩnh lặng của lòng
ta:
“Giữa
tăng và tục
Là
khoảng trống không cùng
Của
giận hờn nhẫn nhục
Của
chấp ngã bao dung
Giữa
đạo và đời
Là
khoảng hư vô diệu vơi
Giữa
người và tôi
Là
trái tim biết nói
Giữa
không và có
Rồi
một ngày tâm tĩnh lặng
Như
hoa sen và nụ cười
Là
niềm vui vô tận
Cho
người và cho tôi”
Ba
mươi lăm năm sống trên xứ người, thời gian dài
đằng đẵng ấy, tưởng như đã đốt cháy tư
tưởng, ý trí của Tùy Anh. Nhưng đọc ông, ta thấy
niềm tin vẫn hừng hực trong ông như thuở nào, dẫu
biết rằng sức đã cạn, đường về nhà còn khó
khăn và xa vời vợi...
Và
tôi tin, khi hoàng hôn về, Tùy Anh vẫn đi ra hướng
biển, nơi Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân, để
vắt hết những gì còn lại trong trái tim mình, đặt
lên trang viết, gửi về nơi đất mẹ.
Từ
trái sang nhà thơ Trần Trung Đạo, Nhà thơ
Tùy Anh giữa và Đỗ Trường đeo kính
Leipzig
ngày 11-12-2014
No comments:
Post a Comment