10.12.2014
Sau 3 năm chuẩn bị,
ngày 10 tháng 12 năm 1948, Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền (The
Human Rights Declaration)
đã được Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua,
với 48 phiếu thuận, không có phiếu chống, duy chỉ có
Liên Xô cũ, Saudia Arabia và Nam Phi từ chối bỏ phiếu.
Tiến sĩ Herbert, Chủ tịch phiên họp Ðại Hội đồng
LHQ lúc bấy giờ đã nhận xét, rằng “Lịch
sử sẽ ghi nhận Bản Tuyên ngôn này như là một trong
những thành tựu nổi bật của Liên Hiệp Quốc.”
Như
vậy là đã 66 năm qua (1948-2014), Bản Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền đã cho thấy một giá trị phổ quát và vĩnh
cửu. Bởi vì Bản Tuyên ngôn ấy đã thể hiện một
chân lý được khẳng định trong phần mở đầu, rằng
“Mọi
thành viên trong gia đình nhân loại đều có nhân cách,
có quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng. Sự công
nhận nhân cách và các quyền này là nền tảng của tự
do, công chính và hoà bình trên thế giới”;
và rằng “mọi
sự coi thường và khinh thị nhân quyền đều đưa đến
những hành động dã man, xúc phạm đến lương tâm nhân
loại và ước vọng về một thế giới mà mọi người
đều được hưởng tự do ngôn luận, tín ngưỡng và
không bị đe dọa, bởi đã được tuyên cáo đó là khát
vọng cao cả nhất của loài người”.
Trong
30 điều khoản của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
đã đưa ra được những nguyên tắc và liệt kê các
nhân quyền và dân quyền có giá trị như một Bản Hiến
pháp Quốc tế mà các quốc gia hội viên có nghĩa vụ
phải tuân thủ trong việc tôn trọng, bảo vệ và hành
xử các nhân quyền căn bản.
Tuy
nhiên, trên thực tế, từ quá khứ đến hiện tại, vẫn
còn nhiều quốc gia vẫn không tuân thủ các điều khoản
của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Ðó là các
quốc gia có chế độ độc tài phản dân chủ các kiểu,
điển hình như chế độ độc tài đảng trị kiểu cộng
sản ở Việt Nam, hay chế độ độc tài toàn trị kiểu
quân phiệt ở Miến Ðiện hiện nay (đang
có dấu hiệu chuyển biến
theo
hướng dân chủ hóa).
Cả hai kiểu chế độ độc tài tiêu biểu của thời
đại này, dù là thành viên LHQ, có trách nhiệm tuân thủ
Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, song thực tế các
nhà cầm quyền vẫn thách thức công luận bằng những
hành vi trắng trợn vi phạm nhân quyền và các dân quyền
căn bản.
Ðến
đây một câu hỏi được đặt ra là:vì sao chính quyền
trong các chế độ độc tài tại Việt Nam và Miến Ðiện
lại dám thách thức công luận như vậy?
Câu
trả lời tổng quát, theo thiển ý chúng tôi, là vì 30
điều khoản của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
chỉ liệt kê các nhân quyền mà không dự trù các biện
pháp chế tài hữu hiệu. Trên thực tế, các biện pháp
chế tài đối với các chính quyền vi phạm nhân quyền
thường chỉ xuất phát từ các cường quốc có ảnh
hưởng hay LHQ vốn là tổ chức mà các cường quốc
chiếm ưu thế tuyệt đối. Sự chế tài này thường là
các áp lực mạnh hay yếu lại tùy thuộc vào mục đích
vụ lợi của các cường quốc.
Tỷ
như những áp lực của Hoa Kỳ đối với các hành động
vi phạm nhân quyền bao lâu nay của chế độc độc tài
toàn trị tại Việt Nam, thường chỉ là biện pháp được
xử dụng như một phương cách để thành đạt một lợi
ích kinh tế, chính trị ngoại giao nào đó cho Hoa Kỳ.
Cộng sản Việt nam chỉ cần đáp ứng phần nào hay tất
cả lợi ích này cho Hoa Kỳ là họ có thể an tâm tiếp
tục đàn áp nhân dân, chà đạp nhân quyền, nhân danh
cái gọi là “vấn đề nội bộ của Việt nam”. Vì
vậy, sự kết án của Hoa Kỳ hay quốc tế nếu không đi
kèm biện pháp chế tài triệt để và hiệu quả, thì
vẫn chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, không có mấy
hiệu quả thực tế.
Thực
tế là tại Việt Nam, từ lâu nay nhà cầm quyền vẫn
ngang nhiên xâm phạm các quyền dân chủ, dân sinh và nhân
quyền, dù Hoa Kỳ và quốc tế đã nhiều lần lên tiếng
phàn nàn, kết án, cảnh cáo, kèm theo những biện pháp
pháp lý, hành chánh, kinh tế… cũng chỉ có tác dụng
nhẹ nhàng, đủ xoa dịu sự phẫn nộ của công luận và
nếu có hiệu quả thì nhiều lắm cũng chỉ buộc được
nhà cầm quyền Việt Nam lùi một bước để đối
lấy một lợi ích giai đoạn nào đó , hơn là vì lợi
ích tự do dân chủ lâu dài cho nhân dân Việt Nam.
Thực
tế là tại Việt Nam, nhà cầm quyền cộng sản vẫn
thẳng tay bắt bớ, giam cầm và đầy ải các nhà đấu
tranh cho các quyền tự do chính trị và tôn giáo trong các
nhà tù và các trại giam trá hình gọi là “Trại Cải
tạo” được thiết lập trên toàn cõi Việt Nam.
Trước
thực tế này, người Việt Nam ở hải ngoại cũng không
biết làm gì hơn là đẩy mạnh các cuộc đấu tranh hổ
trợ cho các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước, bằng
cách lên tiếng tố cáo và báo động trước công luận
quốc tế về các hành động vi phạm tự do, dân chủ và
nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam.
Đồng
thời, người Việt Nam ở hải ngoại cũng bằng mọi
cách chia sẻ những khó khăn vật chất trong điều kiện
và khả năng có thể và khích lệ tinh thần các nhà dân
chủ trong nước. Cụ thể như tổ chức các hình thức
gây quỹ yểm trợ tài chánh cho các nhà đấu tranh cho
dân chủ trong nước, điển hình như những bữa ăn gây
quỹ hàng năm trong nhiều năm qua tại Houston do Ủy ban
Yểm trợ các Nhà Đấu tranh Dân chủ trong nước thực
hiện; hoặc Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam từ
nhiều năm nay đã tổ chức các buổi lễ vinh danh và
trao giải Nhân quyền Việt Nam hàng năm cho một số nhà
đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền trong nước
và đã bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt cầm tù; mới
đây nhất, là quyết định trao Giải Nhân quyền Việt
Nam năm 2014 cho Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, người
bất đồng chính kiến vừa được nhà cầm quyền Việt
Nam “cho tạm ngưng thi hành” bản án tù 12 năm về tội
tuyên truyền chống chế độ và trục xuất thẳng từ
nhà tù ra khỏi nước.
Nhớ
lại 37 năm trước đây (1977-2014), sau khi Cộng sản Bắc
Việt cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm Hiệp định Paris
ngày 27-1- 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa
bình cho Việt Nam, chúng tôi và một số anh em khác cùng
chung lý tưởng, đã sớm thành lập Mặt trận Nhân quyền
Việt Nam (MTNQVN) trong ý hướng trường kỳ đấu tranh
bằng vũ khí nhân quyền, cho mục tiêu chống độc tài,
dân chủ hoá đất nước, phù hợp với chiều hướng
chiến lược quốc tế mới, hậu “Chiến Tranh Lạnh”,
của các cường quốc.
Đúng
vào ngày này của 37 năm về trước, MTNQVN đã công bố
Tuyên ngôn Nhân quyền Việt Nam năm 1977 đúng vào ngày
10-12-1977 là ngày bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
được Đại Hội đồng LHQ thông qua. Phần mở đầu
của bản tuyên ngôn này đã viết như sau
“Khẳng
định rằng, con người sinh ra có quyền sống và phải
được sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị
của một con người.
“Sống
xứng đáng với nhân phẩm và cương vị của một con
người, là con người không phải chỉ sinh ra để được
sống như một con vật mà còn có nhu cầu khẩn thiết
hơn là phải được sống và sống tự do.
“Sống
tự do là mọi người, không phân biệt sắc tộc, giai
tầng xã hội, phải được tôn trọng, bảo vệ và hành
xử những nhân quyền căn bản đã được ghi trong bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến chương Liên
Hiệp Quốc: Quyền tự do chính trị, tự do kinh tế, tự
do cư trú và vãng lai, tự do tư tưởng bao gồm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn luận v.v….
“Bởi
vì tự do và con người là một thực thể bất khả
phân, có con người là phải có tự do, thiếu nó con
người sẽ sống trong lo âu, sầu tủi và nhân phẩm bị
hạ thấp ngang tầm loài vật.
“Tiếc
thay, một dân tộc đã và đang phải sống ngang tầm loài
vật: Đó là dân tộc Việt Nam. Bởi vì dân tộc này đã
và đang phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị
của những người Cộng sản Việt Nam, dưới chế độ
này mọi nhân quyền và dân quyền căn bản đã bị chà
đạp và tước đoạt.
“Vì
vậy, Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam khẩn thiết tố cáo
trước công luận thế giới và bầy tỏ quyết tâm đấu
tranh đến cùng cho các nhân quyền và dân quyền căn bản
sau đây phải được tôn trọng, bảo vệ và thực
thi tại Việt Nam:…”
Những
dòng cuối cùng của Bản Tuyên ngôn viết:
“…Như
một quy luật, ở đâu có áp bức, ở đó có đấu
tranh; và rằng một chế độ thiết lập bằng bạo lực,
duy trì bằng bạo lực,
như
chế độ độc tài đảng trị đương thời tại Việt
Nam, thì sớm muộn cũng sẽ bị hủy diệt do tự bản
chất và do sức mạnh vùng lên của những con người bị
áp bức, bóc lột.”
Tựu
chung, dù thực tế có thế nào chăng nữa, thì Bản Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền vẫn mang giá trị vĩnh
cửu. Vì đó là chân lý muôn thuở của loài người, có
giá trị qua mọi thời đại, vượt không gian và thời
gian. Tuy nhiên, ngày nào LHQ và các cường quốc không có
những biện pháp chế tài hữu hiệu, vẫn sẽ không ngăn
chặn được các chế độ độc tài vi phạm tự do, dân
chủ và nhân quyền trên thực tế, là vi phạm Bản Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền vậy.
Điển
hình là Cộng sản Việt Nam, sở dĩ vẫn ngang nhiên tiếp
tục các hành vi đàn áp tôn giáo, tiêu diệt đối lập
chính trị và các nhân quyền căn bản như từ bao lâu
nay, chính là vì thực tế Hoa Kỳ nói riêng, và cộng
đồng quốc tế nói chung, có thể vì những lợi ích và
toan tính khác, nên chưa có những biện pháp chế tài
triệt để, hữu hiệu và chưa thể hiện quyết tâm thực
hiện các nguyên tắc và các điều khoản của Bản Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền, vì lợi ích của nhân loại
nói chung, nhân dân các nước sống dưới ách các chế
độ độc tài nói riêng.
Thiện
Ý
Ngày
10 tháng 12 năm 2014.
.
Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài
VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của
Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment