09:47:am
11/12/14
Bùi
Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp
Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông gia nhập làng
báo sau khi theo đội Thanh Niên Xung Phong vào tiếp quản Hà
Nội tháng 10-1954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền
Phong. Thời gian này, ông ký bút danh Tân Sắc và bắt đầu
sáng tác văn nghệ, dù có lệnh cấm nhà báo viết văn
nên phải viết chui tức ký bút danh khác. Cái lệnh kỳ
quái này không cản được Bùi Ngọc Tấn sáng tác và ông
đã gửi một truyện ngắn — Chị Trúc — dự thi giải
văn nghệ của báo Văn Nghệ. Truyện của ông được Tô
Hoài khen hay nhưng không được in và tất nhiên không được
chấm giải, vì bị cho là nói đến những mất mát của
chiến tranh “hơi quá liều lượng.” Tất nhiên sau đó
Bùi Ngọc Tấn phải điều chỉnh cách viết để có thể
tiếp tục góp mặt trong sinh hoạt văn nghệ nhưng đã cố
giữ khoảng cách với “hàng ngũ nhà văn cung đình.”
Cuối
năm 1959, ông chuyển về Hải Phòng làm biên tập viên báo
Hải Phòng Kiến Thiết, đồng thời tiếp tục viết văn
và đã có một số tác phẩm được xuất bản. Về
khoảng thời gian này, trong một lần trả lời phỏng vấn,
ông đã tâm sự “chuyển về thành phố quê hương Hải
Phòng với ước mong thâm nhập công nông để viết được
tác phẩm của đời mình.”
Chưa
kịp viết tác phẩm ấy thì tháng 11-1968, Bùi Ngọc Tấn
bị tống vào tù với tội danh “tuyên truyền phản cách
mạng” trong vụ án “nhóm xét lại chống Đảng, làm
tay sai cho nước ngoài” có mặt các bạn ông như nhà văn
Vũ Thư Hiên, nhà điện ảnh Huy Vân, nhà báo Vũ Huy Cương,
nhà báo Kỳ Vân… dù Bùi Ngọc Tấn chưa bao giờ là đảng
viên đảng Cộng Sản Việt Nam và không hề biết cái tội
mình bị quy kết kia mặt ngang mũi dọc ra sao. Từ đây,
khúc ngoặt cuộc đời Bùi Ngọc Tấn mở ra với bước
khởi đầu là 5 năm sống trong các trại tù mang mỹ danh
“trại tập trung cải tạo.”
Đầu tháng 4-1973, đúng 2 tháng 7 ngày sau khi Hiệp Định chấm dứt chiến tranh Việt Nam ký kết tại Paris, Bùi Ngọc Tấn được ra khỏi nhà tù. Tuy nhiên, những ngày sống ngoài nhà tù lại u ám ghê hãi hơn cả cảnh sống giữa những bức vách nhà tù — như ông ghi lại:
“Trong
những năm tháng hậu tù thất nghiệp đi bốc vác, kéo xe
bò… thoi thóp kinh hoàng ấy, tôi có làm một cuộc khảo
sát đời sống: Ra đầu phố những giờ đi làm và tan
tầm, nhìn những người đạp xe qua Ngã Sáu và phát hiện
một điều: Tất cả những người trên đường không một
ai cười. Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu. Đồng phục quần
áo. Đồng phục mặt người ……
Khi
tôi kêu lên: “Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê
quá”, Nguyên Bình nghiêm mặt bảo tôi: “Cuộc sống
này gần với cuộc sống loài vật. Đâu phải cuộc sống
con người.”
Thực
tế không dừng tại đó.
Giữa
cảnh đọa đầy đẩy con người xuống ngang loài vật
ấy, Bùi Ngọc Tấn lại chỉ được xếp vào hạng phó
người — chính xác hơn là thua cả loài vật. Cùng với
những cực nhọc lam lũ do bị vây hãm bởi nhu cầu cơm
áo trong thân phận phó người sống bên lề xã hội phải
lao vào đủ loại việc mưu sinh khổ ải nhếch nhác là
mạng lưới công an mật vụ luôn vây bọc từng giờ từng
phút. Bùi Ngọc Tấn không ngừng bị cách ly, bị theo dõi,
bị kiểm tra, bị dọa nạt… dưới nhiều hình thức
khiến không tránh khỏi mối ám ảnh luôn bị đeo bám bởi
một “người vô hình” : “… Ai cũng có một người
vô hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi
lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình
với bóng, cả trong giấc ngủ …
Tôi
thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ
theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi.
Đã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết.
Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế
hệ tiếp theo nữa. Đời này sang đời khác.
Tất
cả đều là Gia-ve. Những Gia-ve với lòng dạ đen tối,
không phải tìm sự thật mà chỉ nhăm nhăm hãm hại người
lương thiện…”
Cuộc
sống không còn là cuộc sống mà chỉ là sự tồn tại.
Ý
nghĩa duy nhất về sự tồn tại của bản thân với Bùi
Ngọc Tấn thời kỳ này là “sống vì những đứa con.”
Nhưng mục đích này cũng không dễ theo đuổi vì toàn bộ
gia đình thân thuộc của lớp phó người đều phải gánh
chung thân phận phó người. Những đứa trẻ ngây thơ vô
tội kể cả đứa chỉ mở mắt chào đời khi người cha
đã bị đưa vào tù vẫn bị ngăn trở mọi sinh hoạt, kể
cả việc cắp sách tới trường … khiến luôn thúc đẩy
những cơn tự dằn vặt rồi bùng sôi phẫn nộ : …Tôi
càng thấm thía tội lỗi làm bố của mình. Chỉ vì tôi.
Chỉ vì tôi nên con tôi có thể thất học… Người tôi
sôi lên. Hỡi bọn chó đểu kia. Chúng mày làm gì tao thì
làm, bỏ tù lại tao cũng được. Nhưng đừng triệt hạ
con tao!!”
May
mắn duy nhất với Bùi Ngọc Tấn là không thể từ bỏ
cây bút, dù cầm bút là chuyện thiên nan vạn nan. Vì thế
kiếp sống phó người đã hiện thành những trang sách để
cuối cùng góp mặt với cái tên Chuyện
kể năm 2000.
Đây là tác phẩm được Bùi Ngọc Tấn khởi viết từ
cuối năm 1990 sau hơn 20 năm rời xa chữ nghĩa và tiếp
tục hoàn chỉnh gần 10 năm cho tới khi có cơ hội ấn
hành vào đầu năm 2000. Thế nhưng ngay khi vừa in xong, tác
phẩm đã bị gom lại ghiền nát, ngâm thành bột “như
thi hành án một tội phạm tử hình với khâu cuối cùng
là bác sĩ khám nghiệm tử thi và chôn cất.” Riêng tác
giả chưa kịp hưởng “niềm vui trúng số” vì tác phẩm
được chào đời đã phải nai nịt và ngụy trang mỗi
khi ra đường vào thời điểm đó: “…
Mũ Nin-da, thứ mũ có lưỡi trai, trùm kín đầu kín tai
kín mặt, xuống tận cổ, chỉ để hở hai con mắt. Rất
lợi hại… Trùm vào ấm đã hẳn, người ta lại còn
không biết mình là ai. Chưa kể nó bảo vệ mặt tránh
được những ca át-xít… Cái cảm giác có đuôi ngày nào
trước khi bị bắt năm 1968 lại phả hơi lạnh, hơi bẩn
sau gáy.”
Hậu
Chuyện Kể Năm 2000 ghi lại nhiều diễn biến quanh tác
phẩm Chuyện Kể Năm 2000 từ các đoạn đường hoàn
thành tới khi tác phẩm chào đời và những ngày kế
tiếp. Tựa đề đầu tiên của Hậu Chuyện Kể Năm 2000
là Thời Biến Đổi Gien được Hoàng Hưng diễn giải là
“Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà
cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!”
Đó
là thời đại quét sạch mọi quyền sống căn bản của
con người buộc toàn thể xã hội luôn cúi đầu quỳ gối
tôn thờ những kẻ thủ đoạt quyền lực — thời đại
mà hết thẩy người dân không được phép có một hành
vi, một ý nghĩ nào khác ngoài việc tự biến thành công
cụ phục vụ ý đồ của kẻ thủ đoạt quyền lực được
coi là tín ngưỡng tối cao độc nhất vô nhị. Nhưng
những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 cho thấy mọi
thủ đoạn bất nhân, mọi chủ trương tàn ác không hoàn
toàn đáp ứng đúng tham vọng của kẻ thủ đoạt quyền
lực. Qua những điều gần như vụn vặt nhỏ nhoi nhất
trong cuộc sống, tình người vẫn luôn vươn lên bằng
mọi cách thuộc mọi lúc và ở mọi nơi.
Vợ
con người tù tới thăm mộ chồng không dám cất tiếng
khóc vì đã có lệnh cấm khóc, nhưng không lệnh nào có
thể cấm được nỗi đau dâng lên trong trái tim họ. Cũng
không có lệnh nào hỗ trợ nổi cho các luận điệu dối
trá nói trắng thành đen để buộc mọi người phải đặt
trọn niềm tin vào những điều vu cáo.
Sự
câm lặng của người vợ và những đứa con trước mộ
chồng, mộ cha cũng như những cái gật đầu của đám
đông trước các luận điệu dối trá chỉ biểu tỏ một
tâm thế chịu đựng nhất thời trong khi sức sống của
tình người hướng về thương yêu, hướng về sự thật
luôn kiên trì tồn tại với độ nóng có thể còn vượt
mức độ bình thường.
Chính
vì thế, cuốn sách bị kết án tử hình, bị ghiền thành
bột đã lập tức phát tán khắp nơi qua mọi hình thức
và được truyền tay từ người này sang người khác với
số lượng khó thể ước đoán. Thêm nữa, những dòng
hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã ghi rõ tên tuổi
từng người liên hệ tới mọi chuyện kể. Điều này
không chỉ diễn tả tấm lòng tôn vinh sự thật mà còn
cho thấy thái độ bất chấp mọi chủ trương trấn áp,
mọi thủ đoạn bạo hành — thái độ bất khuất của ý
chí kiên trì sự sống đúng nghĩa.
Năm
2012 tại Paris vào dịp Festival Livre Et Mer trao tặng giải
thưởng cho tác phẩm Biển
và chim bói cá
của Bùi Ngọc Tấn, nhà văn kiêm kịch sĩ Francois Bourgeon
đã phát biểu : “…
Từ khi lập ra giải thưởng này, tác phẩm của Bùi Ngọc
Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thoả mãn. Tác giả là
người Việt Nam. Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một
cuốn tiểu thuyết nhân văn… Bùi Ngọc Tấn biết cái
giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một
tác phẩm không thể quên. Thậm chí có lẽ là… một tác
phẩm làm cho ta tốt hơn.”
Dù
chỉ nêu nhận định về tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá,
nhưng Francois Bourgeon đã cho thấy cái nhìn bao quát về
thế giới chữ nghĩa của Bùi Ngọc Tấn trong đó không
thể vắng tác phẩm Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Và có thể
nói kết luận của Francois Bourgeon về “một tác phẩm
làm cho ta tốt hơn” càng chính xác khi dành cho Hậu
Chuyện Kể Năm 2000 tức Thời Biến Đổi Gien.
Bởi
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 không chỉ phác họa trung thực
chân dung “ba kiếp sống” của những thế hệ nạn nhân
Việt Nam trong thời đại quyền lực độc tôn mặc tình
tác ác mà đã cho thấy ý chí bất khuất và sức sống
phi thường của tình người qua vô số diễn biến cụ
thể trong cuộc sống thường ngày đang quằn quại dưới
đủ mọi thủ đoạn bất nhân tàn khốc. Những dòng hồi
ức của Bùi Ngọc Tấn qua Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã
dựng lên hình ảnh một chân trời yêu thương đầm ấm
với âm hưởng lời ca thúc đẩy những bước chân dũng
cảm kiên trì vươn tới chân trời ấy để “làm cho ta
tốt hơn” — như cảm nghĩ của Francois Bourgeon — hầu
đạt tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
©
Uyên Thao
------------------------
Blog
Bùi Ngọc Tấn
http://tiengquehuong.wordpress.com/
No comments:
Post a Comment