Khi trục xuất anh Điếu Cày ra khỏi Việt Nam,
lãnh đạo CS nghĩ họ trục xuất anh sang Mỹ. Với lãnh đạo CS đó là một chọn lựa
khôn ngoan. Bởi vì, theo họ, tên anh gắn liền với các phong trào chống chủ
nghĩa Đại Hán Bá Quyền Trung Cộng; phong trào do anh lãnh đạo chẳng những không
bị dập tắt dần theo năm tháng tù đày của riêng anh nhưng đã mỗi ngày một phát
triển rộng; để anh ở lại là một mối lo canh cánh bên lòng.
Thật ra, đảng nghĩ vậy là lầm.
Từ lâu Việt Nam đã hình thành hai khối, Việt
Nam CS và Việt Nam Tự Do. Đảng không đẩy anh qua Mỹ mà đã đẩy anh về phía Việt
Nam Tự Do đang có mặt ở khắp bốn phương trời kể cả tại Việt Nam. Thả một con
chim như Điếu Cày bay vào bầu trời tự do, con chim đó sẽ không biền biệt cuối
chân mây nhưng một ngày sẽ bay về ngậm theo những hạt lúa mới. Hạt lúa dân chủ,
khai phóng, nhân bản và tình người.
Khác với nhiều người tranh đấu trước anh, có
thể ra đi vì chính kiến, ra đi vì quan điểm, ra đi vì gia đình, Điếu Cày ra đi
vì trái tim khát vọng nồng cháy. Chính kiến có thể thay đổi, quan điểm có thể
thỏa hiệp nhưng khát vọng độc lập, tự do dân tộc phát xuất từ trái tim của một
con người chỉ có chết mới thôi.
Khát vọng độc lập, tự do dân tộc như đã chứng
minh trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, là ngọn lửa không bao giờ tắt. Hơn một
ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực
hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm
hương, châu báu, nhưng dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được
bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần
bị mất đi và giành lại được, Thăng Long đã từng bị đốt cháy nhưng chúng ta hãnh
diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc.
Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của
một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi
nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn
Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải
chỉ là những địa danh, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí
của dân tộc Việt Nam.
Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu,
những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc
Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là
chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu
xương và nước mắt của tổ tiên đổ xuống trước tham vọng của các triều đại Bắc
phương xâm lấn.
Trong lúc sự kính trọng dành cho hàng trăm
nhà dân chủ đang bị tù dày bao giờ cũng sâu đậm, tình cảm của đồng bào trong và
ngoài nước dành cho anh Điếu Cày, đặc biệt trong thời gian anh tuyệt thực đã
vượt lên trên. Tình cảm đồng bào dành cho anh giống như tình cảm của anh dành
cho đất nước: thiêng liêng, thân thương và trong sáng.
Anh Điếu Cày không phải là nhà thơ, nhà văn,
nhà chính trị, nhà cách mạng, nhà lý thuyết, nhà hùng biện, nhà nhiếp ảnh
chuyên nghiệp. Không phải là nhà nào cả. Anh chỉ là Điếu Cày Nguyễn Văn Hải,
cái tên một lần nghe rất lạ nay đã trở thành quen thuộc và gần gũi, đặc biệt
trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.
Anh Điếu Cày không phải là Nelson Madela của
Nam Phi, Aung San Suu Ky của Miến Điện, Vaclav Havel của Tiệp. Anh là một người
Việt Nam bình thường, đơn giản như hạt gạo, củ sắn, củ khoai, con mắm, ngọn rau
nhưng cũng vô cùng cao quý bởi vì anh nói lên khát vọng độc lập tự chủ của dân
tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Nỗi đau trong lòng anh là nỗi đau của một dân
tộc định cư hơn bốn ngàn năm trên bán đảo Đông Dương trải dài 3260 cây số nhưng
nay chỉ còn bờ mà không còn biển. Phải dành lại biển Đông, phải giành lại những
hòn đảo mang tên Việt Nam, phải giành lại những tài nguyên trong lòng biển mà
cha ông đã đổ máu để giữ gìn. Anh bước đi trên con đường quê hương gai góc, con
đường nhiều người khác không dám đi: con đường chống Trung Cộng xâm lăng.
Mẫu số chung hôm nay là dân tộc và dân chủ.
Mẫu số chung thiêng liêng đó vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi
chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Mẫu số chung thiêng
liêng đó không chỉ giá trị đối với những người đã từng hy sinh, từng đổ máu để
bảo vệ miền Nam mà còn cho cả nhiều triệu đồng bào đã bị khủng bố từng ngày,
từng đêm trên đất nước.
Không giống như 70 ngàn người Nga lưu vong ở
Paris sau cách mạng CS năm 1917 hay hàng trăm ngàn người Việt lưu vong ngay sau
CS chiếm VNCH năm 1975, người Việt Nam tự do hôm nay không còn mang tâm trạng
lưu vong nữa. Thời đại hôm nay là thời đại của những người chết đang bắt đầu
sống lại và người đi đang lần lượt quay về. Anh Điếu Cày cũng vậy, trong lòng
anh không có khái niệm lưu vong, anh ra đi là để quay về. Và chúng ta sẽ về.
Cuộc cách mạng tin học, cách mạng kinh tế
toàn cầu, sự sụp đổ của hệ thống CS Liên Xô và chư hầu Đông Âu đã xóa bỏ nhiều
cách ngăn, biên giới, thu ngắn thời gian và thu hẹp không gian. Anh Điếu Cày
rời nhà tù, anh ra phi trường, anh lên máy bay, anh xuống máy bay, đối với
người Việt quan tâm đến đất nước và anh, tất cả điều đó như đã diễn ra trong
cùng một không gian và cùng một múi giờ dù ở chúng ta ở đâu trên mặt đất này.
Bởi vì, không gian là trái tim Việt Nam và thời gian được tính bằng nhịp đập
của trái tim Việt Nam.
Ngày cáo chung của chế độ CS toàn trị tại
Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả những lãnh đạo cao cấp nhất của đảng
CS cũng biết điều đó. Những cường hào ác bá cai trị đất nước ngày nay không
phải là những người làm nên lịch sử mà chỉ là những kẻ làm công việc giải
thích, ăn cắp, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt Nam của
Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trước đây, và tiếp tục sống huy hoàng trên nỗi thống
khổ triền miên của dân tộc Việt Nam. Họ phải bị lật đổ.
Trước ngày 25 tháng 12 năm 1991, đảng CS Liên
Xô cai trị một vùng đất có diện tích 22 triệu 400 ngàn kilomet vuông, rộng hơn
cả thời huy hoàng nhất của Đế Quốc Nga và một đạo quân 5.3 triệu lính, nhưng
không cứu vớt được Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô phát xuất từ nhiều lý
do nhưng sâu xa nhất vẫn là từ khát vọng độc lập tự do của các dân tộc Estonia,
theo chân là Lithuania, Latvia và lan dần sang các dân tộc khác như Azerbaijan,
Armenia, Tajikistan và Uzbekistan. Những dân tộc bị trị chiếm hai phần ba dân
số của Liên Xô và đã đấu tranh không ngừng nghỉ ngay từ ngày đầu bị cưỡng
chiếm.
Câu chuyện bi hùng về phong trào du kích Anh
Em Rừng (Forest Brothers) của các dân tộc vùng Baltics chống lại CS Liên Xô từ
sau thế chiến thứ hai là một bằng chứng hùng hồn. August Sabbe, người Estonia,
kháng chiến quân cuối cùng của Anh Em Rừng bị KGB khám phá hơn 30 năm sau, ngày
27 tháng 9 năm 1978, nhưng chúng không giết được anh. Anh đã nhảy xuống sông
Vohandu tuẫn tiết mang theo khát vọng tự do thiêng liêng. Phạm Hồng Thái của
Việt Nam trước đó đã hy sinh như thế. Cuối cùng, tinh thần dân tộc và khát vọng
dân chủ tự do của dân tộc Estonia đã thắng KGB và vượt qua được chính sách tẩy
não vô cùng thâm độc của chủ nghĩa CS.
Biển Thái Bình hôm nay là sông Bến Hải trước
đây. Và thuận lợi hơn trước thời điểm năm 1975, bên kia Thái Bình Dương, cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, vì quyền sống của con
người đang bùng lên trên mọi ngã đường, mọi giới, mọi thế hệ. Quá khứ dù có khó
khăn, hiện tại còn vất vả nhưng tương lai tươi đẹp rồi sẽ đến. Dòng sông dù còn
vẩn đục nhưng nước đang trôi nên sẽ có một ngày trong. Cánh cửa đã mở. Ánh sáng
đã rọi vào. Những người mang ánh sáng đang có mặt trên khắp ba miền đất nước. Họ
còn ít, còn yếu nhưng họ là ánh sáng, ánh sáng Điếu Cày.
Boston, 22 tháng 10, 2014
No comments:
Post a Comment