22.10.2014
Kể từ khi ra đời đến nay, “Đảng ta” - danh
xưng trìu mến mà nhân dân ta vẫn dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam – luôn giương
cao “ngọn cờ chiến đấu” là “giải phóng giai cấp”, “giải phóng dân tộc” và trên
hết là “giải phóng con người”.
Trong suốt 84 năm qua, dưới sự lãnh đạo “tài
tình và sáng suốt” của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu vĩ đại.
Không bút giấy nào có thể ghi hết “công ơn trời biển” của Đảng và “Bác Hồ”
trong sự nghiệp nặng nề mà cao cả này.
Bất chấp thực tế đó, các “thế lực thù địch”
trong và ngoài nước vẫn ngày đêm truyền bá những “quan điểm sai trái”, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng chính phủ Trần Trọng Kim là một chính
phủ hợp pháp, độc lập và đã làm được rất nhiều việc cho đất nước trong hoàn
cảnh hết sức ngặt nghèo. Theo chúng, thời điểm năm 1945, khi Cách mạng Tháng
Tám diễn ra, Pháp đã trao trả độc lập, dù chưa hoàn toàn, cho Việt Nam. Theo
chúng, rước Trung Quốc (những kẻ luôn có dã tâm thôn tính và triệt phá Việt
Nam) vào để đánh đuổi Pháp (những người đã góp phần quyết định trong công cuộc
khai hoá văn minh cho người Việt) thì chẳng khác nào “rước voi về giày mả tổ”.
Chưa hết, chúng còn cho rằng cuộc chiến tranh Bắc–Nam 1954–1975 ở Việt Nam thực
chất là cuộc nội chiến “huynh đệ tương tàn”, với vũ khí từ hai phe đối địch
trong chiến tranh lạnh; người Mỹ, nếu thực sự “xâm lược” Việt Nam, cũng đã rút
khỏi Việt Nam từ sau Hiệp định Paris năm 1973.
Những “luận điệu sai trái” nói trên thực ra
chẳng có gì là mới mẻ; các “thế lực thù địch” kia đơn giản là muốn phủ nhận sự
nghiệp “giải phóng dân tộc” của Đảng thôi. Chẳng có gì là lạ khi đầu óc tối tăm
không hiểu được rằng sự nghiệp “giải phóng con người” của Đảng còn rực rỡ hơn
thế bội phần. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, chúng ta sẽ cùng điểm
qua vài thành tựu “giải phóng con người” của “Đảng ta”.
Giải phóng lòng tham
Dưới chế độ phong kiến và thực dân, vốn “xấu
xa và thối nát” như Đảng vẫn tuyên truyền cho dân chúng, lòng tham của con
người bị tiết chế bởi những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử “thấp kém” của
xã hội thời bấy giờ. Vì thế, dưới hai chế độ này, con người ta ít khi bộc lộ
“phẩm chất tham lam” của mình.
Cụ Lê Hiền Đức từng kể lại câu chuyện: Sáng
ngày 10.10.1954, trở về Hà Nội sau 9 năm kháng chiến, cụ bắt đầu đi tìm gia
đình và người thân của mình. Vì chiếc ba lô quá nặng không thể mang theo người
được nên cụ đành gửi đại ở bưu điện Bờ Hồ. Buổi chiều, cụ quay lại để lấy ba lô
thì thấy nó vẫn nằm y nguyên chỗ cũ giữa tấp nập người qua kẻ lại mà không hề
bị xâm phạm.
Thế rồi cũng tại chính Bờ Hồ đó, chỉ một thời
gian ngắn dưới sự “lãnh đạo anh minh” của Đảng, dân chúng đã phải ví von: “Có
vợ mà cho đi Tây / Như là xe máy để ngay Bờ Hồ.” Và nay thì “văn hoá trộm cắp”
ở đây đã nở rộ đến mức người ta lập hẳn một trang Facebook riêng với tên gọi “Đạo
chích tại Hồ Gươm – Những điều bạn nên biết”, còn Hà Nội thì trở thành một
trong mười thành phố nhiều
đạo chích nhất thế giới.
Tham nhũng và trộm cắp dần dần trở thành
những hiện tượng rất đỗi quen thuộc và hết sức gần gũi với nhân dân ta.
Chẳng ở đâu trên thế gian này lại có một thứ
“văn hoá” đầy tính “nhân văn” như ở Việt Nam: “văn hoá phong bì”. Các vị “đầy
tớ của nhân dân”, danh xưng khiêm nhường mà giới quan chức Việt Nam vẫn tự
nhận, sẵn sàng vẽ ra đủ thứ dự án hoành tráng lên tới hàng ngàn tỷ mà không cần
phải “băn khoăn” gì về “hiệu quả” của chúng, miễn là họ có thể “gặt hái” được
cái gì đó để tiếp tục sự nghiệp “phụng sự nhân dân” cao cả.
Trộm cắp thì diễn ra mọi lúc mọi nơi; ngay cả
nhà của tướng lĩnh công an cũng được trộm “chiếu cố”. Thậm chí, hễ một ai đó bị
tai nạn là người ta lại chẳng nề hà gì chuyện xông vào hôi của mà mục đích chỉ
là để giúp nạn nhân vì xót của mà quên đi cơn đau đang hành hạ. “Nhân đạo” và
“nhân văn” đến thế thì lịch sử Việt Nam chỉ có ở “thời đại Hồ Chí Minh” thôi!
Giải phóng lòng căm thù đồng loại
Cạnh tranh sinh tồn vốn là một bản năng hàng
đầu của động vật. Các loài vật đôi khi vẫn sát hại đồng loại để tồn tại. Những
cá thể đầu tiên của loài người vẫn tranh giành nhau, thậm chí sát hại nhau vì
sự sinh tồn của mình. Nhưng rồi dần dà, họ nhận ra rằng, vì sự tồn vong của bản
thân cũng như giống nòi, họ cần thương yêu, đùm bọc lẫn nhau để hợp tác với
nhau trong hoạt động săn bắn, hái lượm, và đặc biệt là để chống lại những kẻ
thù dị chủng bên ngoài. Bản năng căm thù đồng loại trong xã hội loài người vì
thế mà mai một dần theo thời gian.
Trong các hình thái xã hội trước kia, con
người ta được răn dạy là phải thương yêu lẫn nhau; lòng căm thù đồng loại là
một khái niệm xa lạ trong các hình thái xã hội này. Điều này thể hiện qua những
câu ca dao, thành ngữ như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”, “Thương người như thể thương thân” hay “Lá lành đùm lá
rách”, v.v.
Thế rồi ánh bình minh mà Đảng Cộng sản đem
tới đã xua tan bóng đêm dằng dặc của nhân loại. Và để nhân dân ta vĩnh viễn
thoát khỏi đêm dài tăm tối, một trong những nhiệm vụ hệ trọng nhất mà “Đảng ta”
không một phút giây sao nhãng là khơi dậy và giáo dục lòng căm thù đồng loại
cho mọi người.
“Con người mới XHCN” ở Việt Nam được Đảng
giáo dục không chỉ căm thù đồng loại một cách chung chung mà còn phải hướng
lòng căm thù đó vào chính những người đã sinh thành và dưỡng dục mình, như những
gì mà thế giới đã được chứng kiến trong cuộc cách mạng “long trời lở đất” mang
tên “Cải cách Ruộng đất”. Thay thế những câu ca dao, thành ngữ “suy đồi” kể
trên là những câu thơ ca, thành ngữ mang đậm bản chất “nhân văn” và “nhân đạo”
của “thời đại Hồ Chí Minh”: “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho
ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong / Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
/ Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt” (Tố Hữu), hay “Mình rình mọi người,
mọi người rình mình”, v.v.
Các phương tiện truyền thông trong tay Đảng
vẫn hàng ngày hàng giờ tuyên truyền, kêu gọi nhân dân ta nêu cao tinh thần
“cảnh giác cách mạng” trước các “thế lực thù địch”, bất kể “thế lực thù địch”
đó có thể là bố mẹ, vợ chồng hay con cái của mình.
Nhờ nỗ lực không biết mệt mỏi của Đảng trong
sự nghiệp giải phóng lòng căm thù đồng loại cho nhân dân nên chưa bao giờ bạo
lực lại trở thành một thứ “văn hoá” gần gũi và phổ biến như ở Việt Nam hiện
nay. Người ta chém giết, tra tấn, hành hung nhau gần như mọi lúc mọi nơi, từ gia
đình, tới nhà trường, ra xã hội, cho đến… đồn công an. Người ta dùng bạo lực để
đối xử với nhau bất kể vì lý do gì, nhiều khi chỉ vì “ngứa mắt”. Từ cụ già “gần
đất xa trời”, phụ nữ mang thai cho đến em bé nhi đồng… tất cả đều trở thành đối
tượng tiềm tàng để người ta “trút căm thù”.
Giải phóng bản năng vô pháp luật
Con người ta hầu như chẳng ai muốn bị gò bó
bởi bất cứ thứ luật lệ hay quy tắc mang tính chất ràng buộc nào. Bản chất của
con người là yêu thích tự do. Những cá thể đầu tiên của loài người đề cao tự
do, phóng túng. Dần dà, người ta nhận ra rằng không một cá thể nào đủ sức tồn
tại biệt lập bên ngoài cộng đồng. Mà muốn chung sống với cộng đồng thì mỗi cá
thể phải chấp nhận những quy tắc chung (lề thói, phong tục, tập quán… và trên
hết là pháp luật) của cộng đồng, bởi nếu thiếu những quy tắc đó thì tổ chức
cộng đồng sẽ trở nên hỗn loạn.
Việc tuân theo các quy tắc chung đó dần dần
trở thành thứ phản xạ gần như bản năng của mỗi thành viên trong các hình thái
xã hội trước kia. Một hình ảnh tiêu biểu rất “đáng phê phán” mà người ta thường
thấy ở các nước tư bản “đang giẫy chết” là một người điều khiển xe tự động dừng
phương tiện và kiên nhẫn chờ đèn đỏ giữa đêm khuya, dù xung quanh hoàn toàn
vắng bóng người.
Thế rồi, như một sự “lựa chọn tất yếu” của
lịch sử, “Đảng ta” đã xuất hiện và gần như ngay lập tức giải phóng bản năng vô
pháp luật vốn bị giam hãm trong nhân dân một cách bất công suốt hàng thế kỷ.
Đảng là “tinh hoa” của giống nòi, đại diện cho sự “anh minh”, “sáng suốt” của
dân tộc nên hiếm khi Đảng phải viện đến pháp luật, dù đó là thứ “pháp luật” do
chính Đảng nặn ra, từ những sự kiện hệ trọng trước kia như Cải cách Ruộng đất
hay Vụ án Xét lại Chống Đảng trước kia cho đến những vụ việc đặc nghiêm trọng
hiện nay như vụ vợ
chồng Lê Anh Hùng – Lê Thị Phương Anh tố cáo PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và TBT Nông Đức Mạnh hiện nay, mặc dù truyền thông
quốc tế cũng đã không
ít lần đưa tin.
Như một lẽ tự nhiên, “phẩm chất” vô pháp luật
của Đảng cũng dần lan toả trong nhân dân. Nhờ vậy mà giờ đây hiếm có người Việt
Nam nào vẫn còn đặt niềm tin vào cái gọi là “pháp quyền XHCN”. Thay vì thế, họ
lại sùng bái một động từ tuy đơn giản, mộc mạc nhưng lại đầy “màu nhiệm” – đó
là “chạy”: chạy chức, chạy quyền, chạy dự án, chạy trường, chạy án, chạy tiến
sỹ, chạy giáo sư, chạy huân chương, chạy bảo hiểm, chạy quân hàm, chạy việc
làm, v.v. và v.v. Cả xã hội đua nhau chạy, mạnh ai nấy chạy.
Bộ máy công quyền ngày một phình to để giám
sát việc “thực thi pháp luật”, chỉ vì ý thức pháp luật là khái niệm ngày càng
trở nên xa lạ với nhân dân. Chẳng hạn, tại các chốt giao thông thì chỉ các cột
đèn tín hiệu không thôi là chưa đủ, mà người ta còn cần phải bố trí thêm dăm ba
chú công an mặc quân phục cả vàng lẫn xanh lăm lăm cây gậy trong tay để có thể
điều tiết giao thông.
Những “thành tựu vĩ đại” của Đảng trong sự
nghiệp “giải phóng con người” thì kể mãi cũng không hết. Rốt cuộc, mục tiêu cao
cả nhất của Đảng không phải là “giải phóng dân tộc” hay “giải phóng giai cấp”,
mà chính là “giải phóng con người”. Sau những gì đã trình bày ở trên, liệu còn
có ai dám cho rằng sự nghiệp “giải phóng con người” của “Đảng ta” là không “rực
rỡ”, không “vĩ đại”?
“Không biết đến hết thế kỷ này đã có chủ
nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa?” – đó là câu hỏi mà ngài Tổng Bí
thư đáng kính của chúng ta vẫn ngày đêm “trăn trở”.
Câu hỏi của một bậc “GS.TS” từng đảm trách
cương vị “Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương” thì quả là quá khó không chỉ
với người Việt Nam chúng ta mà với cả nhân loại văn minh. Tuy nhiên, điều mà
chúng ta có thể trả lời dứt khoát ngay bây giờ là không cần phải đợi đến cuối
thế kỷ này, “Đảng ta” mới giải phóng hết tất cả những bản năng hoang dã vốn bị
giam hãm trong nhân dân ta suốt hàng ngàn năm qua. Và rồi, sau một chu trình
phát triển theo vòng xoáy trôn ốc mà Karl Marx “thiên tài” đã khám phá ra, đất
nước chúng ta sẽ “tiến lên” một nền văn minh hoang dã khác./
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của
Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment