Saturday 13 September 2014

JOSEPH E. STIGLITZ : DÂN CHỦ TRONG THẾ KỶ XXI (Đỗ Kim Thêm dịch)




Dr. Đỗ Kim Thêm L.L. M., M. A
September 11, 2014 | Bình Luận

Piketty báo động về hình thức tư bản mới và tình trạng bất công cao độ tại các nước phương Tây trong thế kỷ XXI. Theo Piketty, đánh thuế giới hữu sản là giải pháp cần đặt ra. Để bổ sung, Stiglitz xem cơ chế thị trường là một trò chơi có quy luật trong một tiến trình dân chủ và hiện nay không hoạt động bình thường và chủ nghiã tư bản lại đang biến dạng sang một loại hình khác thay thế (ersatz capitalism). Do đó, khác với Piketty, Stiglitz cổ vũ các biện pháp cải cách dân chủ là chính để cho thị trưởng hoạt động hữu hiệu hơn.

Việt Nam sẽ đi về đâu theo các suy luận của Piketty và Stiglitz?

Về kinh tế, cơ chế vận hành không ở dạng “ersatz capiltalism” theo Stiglitz mà định hướng XHCN trở thành “casino capitalism“. Thị trường là một sòng bạc khổng lồ với bạc giả và đánh lận. Bạc giả vì là tiền của người khác và đánh lận là vì không trọng luật chơi mà quản lý nợ công là thí dụ. Việc chuyển giao 750 triệu đô là tiền vay được của thị trường tài chính New York năm 2005 cho Vinashin vay lại là một hình thức đánh tráo tiền trong canh bạc của gia đình: Không cần kiểm tra trưóc dự án tài trợ mà giao hết tiền một lần, không rà soát lại khi phát hiện có vấn đề và không thể quy trách và đòi lại khi mất trắng. Vì nguyên tắc tài chính công chỉ là chuyện nhỏ trong điều hành nội bộ, nên chủ sòng bạc cố tìm tiền vay mới và nhẹ lãi, một cách có tiền tươi để đảo nợ và canh bạc vẫn tiếp tục.

Về chính trị, dân chủ theo phương Tây đã không có và sẽ không thể hình thành như Stiglitz tiên đoán. Chính trường là một sân bóng đá mà chính quyền vừa là cầu thủ và trọng tài bất chấp luật chơi, nhưng lại cáo buộc người dự khán phản đối là suy thoái đạo đức.

Lý do duy nhất để giải thích cho hai chuyện bình thường này là vì dân chủ XHCN ưu việt hơn vạn lần, nên đảng quyền không tạo điều kiện cho hệ thống pháp quyến hoạt động.

Thực ra, biện pháp thuế khoá của Piketty hay dân chủ của Stiglitz không còn quan trọng bằng sự toàn vẹn lãnh thổ và tồn vong của chế độ mà chính giới phải đối phó.

Nhưng lãnh đạo đang làm gì trước hiểm hoạ ngoại xâm và bất ổn nội tình?

Tiếp tục triển khai một “Đồng thuận Thành Đô” lần thứ hai để tăng tốc cho tiến trỉnh Hán hoá sớm được hoàn chỉnh hay một ”Đồng thuận Washington” để cho tiến trình Mỹ hoá được khởi động tốt đẹp. Hai nỗ lực này chỉ để tiếp sức cho chế độ hiện nay sống còn, nhưng sẽ là một đại hoạ cho dân tộc trong tương lai.

Giải pháp “Đồng thuận Diên Hồng”, một biểu hiện sức mạnh của toàn dân, mà lịch sử đã chứng minh là khả thi, thành công, và phù hợp với trào lưu dân chủ của thời đại văn minh, nhưng lãnh đạo thiếu can đảm thực hiện.

Bất hạnh hơn cho dân chúng vì muốn yên thân nên còn hy vọng là sẽ có một giải pháp thay đổi trong an hoà, nhưng giới đối kháng chưa tìm được một lãnh tụ như Aung Sung Suu Kyi và toàn dân chưa có một chổ để phát biểu nguyện vọng như Tahirr Square. (Lời người dịch)

Thomas Piketty

&  Joseph Eugene Stiglitz


Joseph E. Stiglitz: Dân Chủ Trong Thế Kỷ XXI

Sự đón nhận tác phẩm mới của Thomas Piketty Tư Bản Trong Thế Kỷ XXI tại Hoa Kỳ và các nước khác có nền kinh tế tiên tiến chứng tỏ được mối quan ngại ngày càng gia tăng về tình trạng bất công đang lan rộng. Tác phẩm của ông nhấn mạnh đặc biệt đến các chứng cớ, vốn dĩ đã tràn ngập trước đây, liên quan đến việc thu nhập và tích sản quá mức dành cho giới thượng lưu.

Hơn thế, tác phẩm của Piketty đem lại một cái nhìn khác biệt về những năm 1930 hay những năm sau thời kỳ Đại Suy thoái và Đệ nhị Thếchiến. Ông xem thời kỳ này như một ngoại lệ lịch sử, có lẽ là do một tinh thần đoàn kết khác thường trong xã hội mà những biến cố đặc biệt có thể tác động. Trong trào lưu của tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, sự thịnh vượng được chia sẽ cùng khắp, tất cả mọi tầng lớp đều thăng tiến, nhưng đối với giới hạ tầng cũng có hưởng được phần lớn.

Piketty cũng có giải thích mới hơn về “các cải cách“ do Ronald Reagan và Magaret Thatcher đề xuất trong những năm 1980, ông xem đó là những gia tốc cho tăng trưởng, mà tất cả đều hưởng lợi. Tiếp theo sau đợt cải cách này là thời kỳ tăng trưởng chậm lại và bất công toàn cầu lên đến cao điểm, và tăng trưởng chỉ sinh lợi cho phần lớn giai cấp thượng tầng.

Nhưng công trình của Piketty đưa ra những chủ đề cơ bản liên quan vừa lý thuyết kinh tế lẫn tương lai của chủ nghiã tư bản. Ông dùng tư liệu để chứng minh về những tăng trưởng quy mô qua mối quan hệ giữa thịnh vượng và sản xuất. Trong lý thuyết cơ bản, việc tăng trưởng như thế kết hợp với việc lợi nhuận tư bản giảm và tiền lương tăng. Nhưng ngày nay, lợi nhuận tư bản dường như không giảm, dù tiền lương đang giảm. (Lấy thí dụ như tại Hoa Kỳ, mức lương trung bình giảm xuống khoảng 7% trong hơn bốn thập niên qua.)

Lời giải thích hiển nhiên nhất cho vấn đề là sự gia tăng thịnh vượng đo lường được không tương xứng với đà gia tăng của tư bản có sinh lợi – và số liệu dường như hỗ trợ cho lối giải thích này. Nhiều gia tăng trong tài sản bắt nguồn từ chổ gia tăng giá trị bất động sản. Trước khủng hoảng tài chính năm 2008, bong bóng bất động sản là chuyện hiển nhiên tại một số nước; kể cả đến nay, việc sửa sai này không hoàn chỉnh. Sự gia tăng giá trị cũng có thể biểu hiện qua tinh thần cạnh tranh giữa giới nhà giàu khi họ mua những loại tài sản tạo thêm uy thế – thí dụ như mua nhà ở bờ biển hay một căn hộ tại Fifth Avenue của thành phố New York.

Đôi khi, tình hình gia tăng của cải tài chính có thể đo lường được chỉ thuần là do sự biến dạng của cải không đo lường thành đo lường được – nhưng cách biến dạng này thực ra có thể phản ảnh tình trạng xuống giá của toàn bộ thành tựu kinh tế. Nếu độc quyền gia tăng hay nhiều doanh nghiệp (như nhiều ngân hàng) triển khai các phương pháp tốt hơn để bóc lột giới tiêu thụ bình dân, thì tác động này biểu hiện qua số doanh lợi cao hơn, khi doanh số này thành vốn tư bản, thì nó sẽ làm tăng tài sản tài chính.

Nếu sự việc này xãy ra, thì dĩ nhiên, phúc lợi xã hội và hiệu năng kinh tế giảm xuống, ngay cả lúc chúng ta kiểm tra chính thức được là thịnh vượng có tăng lên. Chúng ta không hề nghiên cứu đến sự suy giảm tương ứng của giá trị về vốn con người – mà đó là tài sản của giới công nhân.
Ngoài ra, nếu những ngân hàng tiếp tục sử dụng ảnh hưởng chính trị để quốc hữu hoá mọi thua lỗ và giữ lại càng lúc càng nhiều hơn các doanh lợi bất chánh, thì những tài sản trong lĩnh vực tài chính, khi được kiểm tra, có gia tăng. Nhưng chúng ta lại không kiểm tra mức suy giảm tương ứng trong tài sản của người trả thuế. Cũng tương tự như vậy, khi doanh nghiệp thuyết phục được chính quyền trả giá cao hơn để mua sản phẩm của họ (như các doanh nghiệp dược phẩm đã làm thành công), hoặc là cho họ mua được các nguồn tài nguyên công cộng với giá rẻ hơn giá thị trường (như các doanh nghiệp khai thác quặng mỏ đã làm thành công), biện pháp ưu đãi này làm cho tài sản tài chính của doanh nghiệp có tăng lên trong các báo cáo, cho dù tài sản của toàn dân không tăng.

Những gì mà chúng ta đang quan sát – tình trạng lương bổng bị đình trệ và bất công lan rộng, ngay cả khi thịnh vượng gia tăng – không phản ảnh được phương cách làm việc của nền kinh tế thị trường bình thường, nhưng đó là một nền kinh tế mà tôi gọị là “loại hình thay thế cho chủ nghiã tư bản”. Vấn đề có lẽ không phải là cơ chế thị trường phải hay hoạt động như thế nào, nhưng với hệ thống chính trị của chúng ta, hệ thống này đã không đảm bảo cho thị trường có được canh tranh và đề ra những luật lệ chỉ làm duy trì tình trạng xáo trộn mà các doanh nghiệp và giới giàu có thể bóc lột mọi người khác (đây là một chuyện không may nhưng lại đang xãy ra)

Dĩ nhiên, cơ chế thị trường không hiện diện trong một khoảng không vô nghĩa. Ở đó cũng phải có quy luật cho một trò chơi và luật chơi này được đặt ra qua những tiến trình chính trị. Bất công kinh tế ở mức độ cao tại những nước như Hoa Kỳ, và các nước khác theo mô hình kinh tế này ngày càng tăng, đưa tới bất ổn chính trị. Trong một hệ thống chính trị như thế, thì những cơ hội thăng tiến kinh tế trở nên bất công, làm cho mức độ năng động xã hội giảm đi.

Chính vì thế mà tiên đoán của Piketty về tình trạng bất công đang còn ở cao độ không phản ảnh được quy luật cưỡng chế của Kinh Tế học. Những thay đổi đơn thuần – gồm cả trong lĩnh vực đánh thuế trên lợi nhuận cao của tư bản và di sản, gia tăng công phí để mở rộng cơ hội giáo dục, chấp hành nghiêm chỉnh về các luật lệ cạnh tranh, cải cách việc điều hành doanh nghiệp để hạn chế việc trả lương cho lãnh đạo, và những luật lệ tài chính để thanh lọc khả năng ngân hàng trong việc bóc lột toàn xã hội – tất cả biện pháp này sẽ làm giảm đi đáng kể về tình trạng bất công và gia tăng công bình về cơ hội.

Nếu chúng ta đề ra nhũng quy luật cho trò chơi này nghiêm túc, chúng ta có thể phục hồi nhanh chóng và chia sẻ thành quả của tăng trưởng kinh tế cho mọi người, mà đặc điểm chính là cho giới trung lưu như trong các xã hội ở giữa thế kỷ XX. Vấn đề chủ yếu hiện nay mà chúng ta phải đối phó thực ra không phải là tư bản, mà là dân chủ trong thế kỷ XXI.

Joseph E. Stiglitz đoạt giải Nobel Kinh tế và là Giáo sư Đại học Columbia. Ông đã làm Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh tế cho Tổng Thống Bill Clinton và Phó Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới.
Tác phẩm mới nhất của ông viết chung với Bruce Greenwald là Creating Learning Society: A New Approach to Growth, Development, and Social Progress.

Nguyên tác: Democracy in the Twenty–First Century

Đỗ Kim Thêm dịch

*

Joseph E. Stiglitz
Joseph E. Stiglitz, a Nobel laureate in economics and University Professor at Columbia University, was Chairman of President Bill Clinton’s Council of Economic Advisers and served as Senior Vice President and Chief Economist of the World Bank. His most recent book, co-authored with Bruce Greenwald, is Creating a Learning Society: A New Approach to Growth, Development, and Social Progress.

Democracy in the Twenty-First Century
NEW YORK – The reception in the United States, and in other advanced economies, of Thomas Piketty’s recent book Capital in the Twenty-First Century attests to growing concern about rising inequality. His book lends further weight to the already overwhelming body of evidence concerning the soaring share of income and wealth at the very top.
Piketty’s book, moreover, provides a different perspective on the 30 or so years that followed the Great Depression and World War II, viewing this period as a historical anomaly, perhaps caused by the unusual social cohesion that cataclysmic events can stimulate. In that era of rapid economic growth, prosperity was widely shared, with all groups advancing, but with those at the bottom seeing larger percentage gains.
Piketty also sheds new light on the “reforms” sold by Ronald Reagan and Margaret Thatcher in the 1980s as growth enhancers from which all would benefit. Their reforms were followed by slower growth and heightened global instability, and what growth did occur benefited mostly those at the top.
But Piketty’s work raises fundamental issues concerning both economic theory and the future of capitalism. He documents large increases in the wealth/output ratio. In standard theory, such increases would be associated with a fall in the return to capital and an increase in wages. But today the return to capital does not seem to have diminished, though wages have. (In the US, for example, average wages have stagnated over the past four decades.)
The most obvious explanation is that the increase in measured wealth does not correspond to an increase in productive capital – and the data seem consistent with this interpretation. Much of the increase in wealth stemmed from an increase in the value of real estate. Before the 2008 financial crisis, a real-estate bubble was evident in many countries; even now, there may not have been a full “correction.” The rise in value also can represent competition among the rich for “positional” goods – a house on the beach or an apartment on New York City’s Fifth Avenue.
Sometimes an increase in measured financial wealth corresponds to little more than a shift from “unmeasured” wealth to measured wealth – shifts that can actually reflect deterioration in overall economic performance. If monopoly power increases, or firms (like banks) develop better methods of exploiting ordinary consumers, it will show up as higher profits and, when capitalized, as an increase in financial wealth.
But when this happens, of course, societal wellbeing and economic efficiency fall, even as officially measured wealth rises. We simply do not take into account the corresponding diminution of the value of human capital – the wealth of workers.
Moreover, if banks succeed in using their political influence to socialize losses and retain more and more of their ill-gotten gains, the measured wealth in the financial sector increases. We do not measure the corresponding diminution of taxpayers’ wealth. Likewise, if corporations convince the government to overpay for their products (as the major drug companies have succeeded in doing), or are given access to public resources at below-market prices (as mining companies have succeeded in doing), reported financial wealth increases, though the wealth of ordinary citizens does not.
What we have been observing – wage stagnation and rising inequality, even as wealth increases – does not reflect the workings of a normal market economy, but of what I call “ersatz capitalism.” The problem may not be with how markets should or do work, but with our political system, which has failed to ensure that markets are competitive, and has designed rules that sustain distorted markets in which corporations and the rich can (and unfortunately do) exploit everyone else.
Markets, of course, do not exist in a vacuum. There have to be rules of the game, and these are established through political processes. High levels of economic inequality in countries like the US and, increasingly, those that have followed its economic model, lead to political inequality. In such a system, opportunities for economic advancement become unequal as well, reinforcing low levels of social mobility.
Thus, Piketty’s forecast of still higher levels of inequality does not reflect the inexorable laws of economics. Simple changes – including higher capital-gains and inheritance taxes, greater spending to broaden access to education, rigorous enforcement of anti-trust laws, corporate-governance reforms that circumscribe executive pay, and financial regulations that rein in banks’ ability to exploit the rest of society – would reduce inequality and increase equality of opportunity markedly.
If we get the rules of the game right, we might even be able to restore the rapid and shared economic growth that characterized the middle-class societies of the mid-twentieth century. The main question confronting us today is not really about capital in the twenty-first century. It is about democracy in the twenty-first century.





No comments:

Post a Comment

View My Stats